3.12.2008
Diễn biến chính của Hội nghị Paris về Việt Nam
Thứ sáu, 24 Tháng một 2003, 15:40 GMT+7
Diễn biến chính cua Hội nghi Paris về Viet Nam
Ngoại trưởng Mỹ William P. Rogers ký Hiệp định Paris.
Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 buộc Mỹ phải rút khỏi Việt Nam và mở đường cho sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn. Đây là kết quả của gần 5 năm đàm phán, với 201 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng giữa Việt Nam và Mỹ, 500 buổi họp báo, gần 1.000 cuộc phỏng vấn và phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam trên khắp thế giới.
Năm 1967
23 đến 26/1. Hội nghị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định nâng hoạt động ngoại giao thành một mặt trận để phối hợp với mặt trận quân sự và chính trị.
Tổng thống Mỹ Johnson.
28/1. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh trả lời phỏng vấn nhà báo Australia Winfred Burchet: "Nếu Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom miền Bắc Việt Nam thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) có thể nói chuyện với Mỹ".
29/9. Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson tuyên bố công thức San Antonio về vấn đề nói chuyện với VNDCCH.
29/12. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh tuyên bố: "Sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom miền Bắc Việt Nam, VNDCCH sẽ nói chuyện với Mỹ về những vấn đề liên quan".
Năm 1968
30 và 31/1. Lực lượng giải phóng tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân ở toàn miền Nam.
31/3. Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson đọc diễn văn về việc ném bom hạn chế miền Bắc Việt Nam và đề nghị nói chuyện với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH).
3/4. Sau nhiều cuộc tiếp xúc bí mật mang tính "tiền trạm" của phía Mỹ, Chính phủ VNDCCH tuyên bố "sẽ cử đại diện tiếp xúc với đại diện Mỹ".
2/5. VNDCCH và Mỹ thỏa thuận lấy thành phố Paris làm điểm tiếp xúc sau một cuộc tranh luận kéo dài gần một tháng.
13/5. Hội nghị Paris giữa phái đoàn VNDCCH và Mỹ chính thức bắt đầu tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế, phố Kléber. Mỹ cử Averell Harriman và Cypruc Vance, hai nhà ngoại giao kỳ cựu, làm trưởng và phó đoàn. Ngoài ra còn có hai chuyên gia khác về Việt Nam là Philippe Habib và W.Jordan. Phía VNDCCH có ông Xuân Thủy, từng nắm trọng trách Bộ trưởng Ngoại giao làm trưởng đoàn, phó đoàn là ông Hà Văn Lâu, nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ngoài ra còn có luật gia Phan Hiền, phó tổng biên tập báo Nhân Dân Nguyễn Thành Lê và ông Nguyễn Minh Vỹ, người từng tham gia Hội nghị Geneva 1961-1962 về Lào.
Lập trường của Mỹ thời kỳ đầu đàm phán là: Cần có sự tham gia của phái đoàn Chính phủ Sài Gòn, Bắc Việt Nam không vi phạm khu phi quân sự, không bắn pháo hay tên lửa vào các thành phố lớn ở miền Nam như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Phía VNDCCH phản đối những đòi hỏi đó và đòi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và để Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia hội đàm.
3/6. Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, cố vấn đặc biệt của phái đoàn VNDCCH Lê Đức Thọ tới Paris.
8/9. Bắt đầu cuộc tiếp xúc riêng giữa cố vấn Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thủy với các ông Harriman và Cypruc Vance.
Ông Lê Đức Thọ và ông Kissinger.
21/10. Bộ trưởng Xuân Thủy thông báo Hà Nội chấp nhận hội nghị bốn bên giữa VNDCCH, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN), Mỹ và Việt Nam Cộng hòa (VNCH).
31/10. Tổng thống Johnson tuyên bố với nhân dân Mỹ: "Chấm dứt mọi việc ném bom bằng không quân, hải quân và bắn phá bằng pháo binh chống miền Bắc Việt Nam bắt đầu từ ngày 1/11/1968", bất chấp sự phản đối của Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu.
Tổng thống Mỹ Richard Nixon.
6/11. Ứng viên đảng Cộng hòa Richard Nixon đắc cử Tổng thống Mỹ.
27/11. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu chấp nhận tham dự Hội nghị Paris cùng với Mỹ, VNDCCH và MTDTGPMNVN.
7/12. Phái đoàn VNCH do ông Nguyễn Cao Kỳ làm cố vấn, ông Phạm Đăng Lâm làm trưởng đoàn rời Sài Gòn đi Paris dự hội nghị.
10/12. Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cử phái đoàn đi dự Hội nghị Paris do ông Trần Bửu Kiếm làm trưởng đoàn, bà Nguyễn Thị Bình làm phó trưởng đoàn.
Năm 1969
25/1. 10h30" sáng, hội nghị bốn bên: VNDCCH, MTDTGPMNVN, Mỹ và VNCH khai mạc trọng thể tại Paris, 5 ngày sau khi Tổng thống Lyndon Johnson rời khỏi Nhà Trắng.
23/2. Richard Nixon ra lệnh ném bom “đất thánh” của “Việt Cộng” ở Campuchia.
8/3. Đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge tới gặp riêng Bộ trưởng Xuân Thủy. Sau đó ông ta đảm trách vị trí trưởng đoàn Mỹ tại Hội nghị Paris thay ông Harriman.
8/5. Phái đoàn MTDTGPMNVN do Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thị Bình đứng đầu đưa ra "Giải pháp hòa bình 10 điểm".
14/5. Tổng thống Mỹ Richard Nixon đưa ra "Đề nghị tám điểm".
Biểu tình phản đối chiến tranh trước Lầu Năm Góc.
6/6. Thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
8/6. Tổng thống Mỹ gặp ông Nguyễn Văn Thiệu ở đảo Midway và ra tuyên bố về đợt rút quân Mỹ đầu tiên gồm 25.000 binh sĩ khỏi miền Nam Việt Nam, bước đầu thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
4/8. Ông Henry Kissinger bí mật gặp ông Xuân Thủy lần đầu tiên ở Paris.
15/10. Bắt đầu đợt “tạm ngừng hoạt động” ở Mỹ để phản đối chiến tranh Việt Nam. Biểu tình rầm rộ diễn ra ở hầu khắp các thành phố lớn trên đất Mỹ.
3/11. Nixon tuyên bố sẽ giải quyết vấn đề Việt Nam bằng thương lượng hoặc thông qua "Việt Nam hóa chiến tranh".
Năm 1970
Tháng 1. Ban chấp hàng Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định đẩy mạnh đấu tranh toàn diện ở miền Nam Việt Nam từ cuối năm 1970 và 1971, chuẩn bị cho bước quyết định vào năm 1972.
Cố vấn Lê Đức Thọ và Henry Kissinger.
Cố vấn Lê Đức Thọ và ông Henry Kissinger.
21/2. Cố vấn Lê Đức Thọ, Bộ trưởng Xuân Thủy gặp ông Henry Kissinger cùng Richard Smyer, chuyên gia về vấn đề Việt Nam, và tướng V. Walters. Bắt đầu các cuộc gặp riêng Lê Đức Thọ và Kissinger.
Tháng 3. Bộ chính trị Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam quyết định đẩy mạnh tấn công quân sự, chính trị và ngoại giao, đòi thành lập chính phủ liên hiệp ở miền Nam.
4/5. Cảnh sát Mỹ bắn chết 4 sinh viên phản đối chiến tranh Việt Nam ở Đại học Kent. 5 ngày sau, biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam nổ ra khắp nước Mỹ.
Sinh viên Đại học Kent bị bắn chết.
Sinh viên Đại học Kent bị bắn chết trong cuộc biểu tình.
17/9. Tại phiên họp toàn thể lần thứ 80 Hội nghị Paris, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đưa ra giải pháp "Tám điểm / nói rõ thêm" về Việt Nam, trong đó có việc rút quân Mỹ và thả tù binh cùng một thời hạn, thành lập chính phủ Liên hiệp Lâm thời ở miền Nam Việt Nam.
18/10. Tổng thống Mỹ Nixon đưa ra "Đề nghị năm điểm" mà không đòi quân miền Bắc rút khỏi miền Nam Việt Nam.
10/12. Tại phiên họp toàn thể lần thứ 94 Hội nghị Paris, bà Nguyễn Thị Bình đưa ra "Tuyên bố ba điểm" về ngừng bắn và yêu cầu quân Mỹ rút khỏi miền Nam vào ngày 31/7/1971.
Năm 1971
21/4. Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai mời Tổng thống Mỹ Richard Nixon thăm Bắc Kinh sau màn "ngoại giao bóng bàn" giữa Mỹ và Trung Quốc.
31/5. Tại cuộc gặp riêng với ông Xuân Thủy, ông Kissinger đưa ra đề nghị “cuối cùng” bảy điểm, đòi tách riêng vấn đề quân sự và vấn đề chính trị, mặc dù trước đây Mỹ định bàn cả hai.
26/6. Phái đoàn VNDCCH đưa ra "Đề nghị chín điểm".
1/7. Tại hội nghị bốn bên, Chính phủ Cách mạng Lâm thời CHMNVN đưa ra "Đề nghị bảy điểm" đòi quân Mỹ rút ra khỏi miền Nam Việt Nam trong năm 1971.
Kisinger gặp Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai.
Ông Kisinger gặp Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai tại Bắc Kinh.
9/7. Kissinger tới Trung Quốc làm tiền trạm cho Tổng thống Nixon đi thăm chính thức Bắc Kinh.
13/7. Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai bí mật sang Hà Nội thông báo việc Kissinger đi Bắc Kinh.
16/8. Tại cuộc gặp riêng ở Trung Quốc, Kissinger đưa ra "Đề nghị tám điểm". Về cơ bản Mỹ vẫn giữ lập trường cũ: Không muốn giải quyết toàn bộ mà chỉ muốn giải quyết vấn đề quân sự để lấy được tù binh về.
20/11. Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng thăm Bắc Kinh.
Năm 1972
25/1. Tổng thống Mỹ Nixon đơn phương công bố nội dung các cuộc gặp riêng và "Đề nghị tám điểm" đưa ra hôm 16/8/1971.
31/1. Phái đoàn VNDCCH công bố "Đề nghị chín điểm" đã trao cho ông Kissinger ngày 26/6/1971, tố cáo Nhà Trắng vi phạm thỏa thuận giữa hai bên không công bố các nội dung cuộc họp riêng theo đề nghị của chính ông Kissinger. Dư luận xôn xao.
Tổng thống Mỹ Nixon gặp Chủ tịch Mao Trạch Đông tại Bắc Kinh.
17/2. Tổng thống Mỹ Richard Nixon lên đường thăm Trung Quốc. Sau đó Trung Quốc và Mỹ ra Thông cáo chung Thượng Hải.
22/3. Mỹ đơn phương tuyên bố ngừng họp Hội nghị Paris vô thời hạn.
30/3. Mở màn cuộc tấn công chiến lược Xuân - Hè, quân giải phóng miền Nam mở các cuộc tấn công lớn từ Quảng Trị đến Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ.
6/4. Tổng thống Mỹ Richard Nixon hạ lệnh ném bom trở lại miền Bắc Việt Nam.
15/4. Mỹ ném bom tại miền Bắc.
2/5. Các ông Lê Đức Thọ và Xuân Thủy gặp lại ông Kissinger tại Paris. Toàn tỉnh Quảng Trị được giải phóng.
8/5. Mỹ thả mìn các cảng và phong tỏa miền Bắc.
Tháng 6. Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam quyết định chuyển sang chiến lược hòa bình.
13/7. Mỹ chấp nhận họp lại hội nghị toàn thể bốn bên ở Paris.
19/7. Tại cuộc gặp riêng, Việt Nam và Mỹ đều đưa ra tuyên bố về chính sách chung. Cuộc thương lượng bí mật giữa Lê Đức Thọ và Kissinger đi vào thực chất.
1/8. Mỹ đưa ra "Đề nghị 12 điểm", VNDCCH đưa ra "Đề nghị 10 điểm".
14/8. Đoàn VNDCCH trao cho Mỹ văn kiện khẳng định lại một số nguyên tắc: Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược, mọi sự dính líu về quân sự ở Việt Nam, mọi sự can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam, tôn trọng quyền tự quyết và quyền độc lập thực sự của Việt Nam; Phải thừa nhận thực tế ở miền Nam Việt Nam có 2 chính quyền, 2 lực lượng vũ trang và 3 lực lượng chính trị, cần lập một chính phủ hòa hợp dân tộc ba thành phần.
8/10. Phái đoàn VNDCCH đưa cho phía Mỹ dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” và hai bên thảo luận cụ thể từng điều khoản.
11/10. Trong cuộc gặp riêng giữa Lê Đức Thọ và Xuân Thủy với Kissinger kéo dài từ sáng ngày 11 đến 2 giờ sáng ngày 12/10, hai bên đã thảo luận về dự thảo hiệp định và lịch trình sau: 18/10 chấm dứt ném bom và thả mìn ở miền Bắc, 19/10 ký tắt Hiệp định tại Hà Nội, 26/10 ký chính thức tại Paris và 27/10 ngừng bắn ở Việt Nam.
13/10. Phía Mỹ thông báo cho đoàn Việt Nam rằng Tổng thống Nixon đã chấp nhận bản dự thảo hai bên đã bàn.
20/10. Tổng thống Mỹ Richard Nixon gửi công hàm cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng và khẳng định “Văn bản hiệp định xem như đã hoàn thành” và cho biết ông Henry Kissinger sẽ đi Hà Nội ngày 24/10, 30/10 ký hiệp định. Mỹ lập cầu hàng không mang tên “Enhance Plus” tiếp tế ồ ạt vũ khí cho Sài Gòn.
21/10. Thủ tướng Phạm Văn Đồng trả lời Tổng thống Nixon rằng, sẵn sàng ký hiệp định, đồng ý thời gian biểu của Nixon nêu.
23/10. Mỹ lại nêu ra nhiều trở ngại để trì hoãn việc ký Hiệp định. Nixon gửi công hàm đề nghị hai bên có cuộc gặp riêng để bàn thêm và báo Kissinger hoãn chuyến đi Hà Nội.
Lính Mỹ hồ hởi với tuyên bố "Hòa bình trong tầm tay".
26/10. Chính phủ VNDCCH công bố các văn kiện Việt Nam và Mỹ đã thỏa thuận và đòi Mỹ ký văn bản đó. Henry Kissinger tuyên bố “Hòa bình trong tầm tay”.
2/11. Richard Nixon ra lệnh B52 tấn công phía Bắc khu phi quân sự.
7/11. Richard Nixon tái đắc cử Tổng thống Mỹ.
20/11. Thương lượng lại: Mỹ đòi sửa đổi hầu hết các vấn đề thực chất trong tất cả các chương theo yêu cầu của chính quyền Sài Gòn.
13/12. Thương lượng bế tắc. Hai bên ngừng họp để xin chỉ thị của chính phủ mình.
18/12. Tổng thống Mỹ Nixon cho máy bay chiến lược B52 ném bom Hà Nội, Hải Phòng, mở đầu chiến dịch mang mật danh “Cuộc hành quân Lineblacker II” kéo dài 12 ngày đêm. Đồng thời, Washington gửi công hàm cho Việt Nam đề nghị họp lại. Hà Nội không trả lời.
22/12. Mỹ lại gửi công hàm yêu cầu họp lại với điều kiện Mỹ sẽ chấm dứt ném bom trên vĩ tuyến 20.
26/12. VNDCCH đòi trở lại tình hình trước ngày 18/12 thì hai bên mới họp lại. Mỹ chấp nhận.
30/12. Đúng 7 giờ sáng, Washington tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ bắc vĩ tuyến 20 và đề nghị nối lại đàm phán ở Paris. Nixon đưa quan điểm "cần đạt được một giải pháp dù đối phương đưa ra những điều kiện khắt khe" và chấp thuận tất cả những gì đã chối từ, kể cả một kết quả đàm phán ngoài mong muốn.
Năm 1973
8/1. Họp lại ở Paris. Ông Kissinger muốn xét lại về các vấn đề các quyền cơ bản của Việt Nam nhưng bị bác bỏ.
Cố vấn Lê Đức Thọ và Kissinger ký tắt Hiệp định Paris.
Ông Lê Đức Thọ và ông Kissinger ký tắt Hiệp định Paris.
10/1. Kissinger yêu cầu “điều chỉnh” lại lực lượng ở miền Nam Việt Nam (tức rút quân miền Bắc), nhưng cũng bị bác bỏ.
13/1. Các bên hoàn thành văn bản của hiệp định. Kết thúc những đợt gặp riêng giữa cố vấn Lê Đức Thọ và cố vấn Henry Kissinger.
16/1. Tổng thống Nixon gửi thư cho ông Nguyễn Văn Thiệu, coi chính quyền của ông Thiệu là hợp pháp duy nhất ở miền Nam Việt Nam.
23/1. Mỹ chấp nhận ký hiệp định Paris không điều kiện. Lê Đức Thọ và Kissinger tiến hành ký tắt hiệp định.
27/1. Bốn bên chính thức ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và 4 nghị định thư liên quan. Tham gia lễ ký có đại diện của VNDCCH là Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, đại diện Mỹ là Ngoại trưởng William P. Rogers, đại diện của MTDTGPMNVN là Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thị Bình và đại diện cho chính quyền Sài Gòn, Tổng trưởng Ngoại giao Nguyễn Văn Lắm.
Hiệp định Paris về Việt Nam có 9 chương với 23 điều khoản. Trong đó, những điều mục quan trọng nhất là:
Điều 1 (Chương I): "Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như hiệp định Genève năm 1954 về Việt Nam đã công nhận".
Điều 3 (Chương II) mục b: "Các lực lượng vũ trang của hai bên miền Nam Việt Nam sẽ ở nguyên vị trí của mình".
Điều 4 (Chương II): "Hoa Kỳ sẽ không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam".
Điều 5 (Chương II): "Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi ký Hiệp định này, sẽ hoàn thành việc rút khỏi miền Nam Việt Nam mọi quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, kể cả nhân viên quân sự kỹ thuật, nhân viên quân sự liên quan đến chương trình bình định, các loại vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác".
28/1. Ngừng bắn trên toàn miền Nam Việt Nam. Hiệp định Paris chính thức được thi hành.
30/1. Tổng thống Richard Nixon gửi công hàm cho VNDCCH về việc Mỹ sẽ đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam.
8/2. Cố vấn Henry Kissinger tới thăm Hà Nội.
21/2. Ký Hiệp định Vientiane về chấm dứt chiến tranh ở Lào.
2/3. Đại diện 12 chính phủ tham gia Hội nghị Quốc tế về Việt Nam tại Paris, với sự có mặt của Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, ký Định ước Paris về Việt Nam.
29/3. Người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam.
Năm 1975
Xe tăng quân giải phóng húc đổ cổng Dinh Độc lập.
30/4. Giải phóng Sài Gòn.
15/11. Tại Sài Gòn, hai đoàn đại biểu miền Bắc và miền Nam họp Hội nghị Hiệp thương bàn việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
Năm 1976
2/7. Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời.
Đình Chính (tổng hợp)
Việt Báo (Theo_VnExpress.net)
Diễn biến chính cua Hội nghi Paris về Viet Nam
Ngoại trưởng Mỹ William P. Rogers ký Hiệp định Paris.
Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 buộc Mỹ phải rút khỏi Việt Nam và mở đường cho sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn. Đây là kết quả của gần 5 năm đàm phán, với 201 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng giữa Việt Nam và Mỹ, 500 buổi họp báo, gần 1.000 cuộc phỏng vấn và phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam trên khắp thế giới.
Năm 1967
23 đến 26/1. Hội nghị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định nâng hoạt động ngoại giao thành một mặt trận để phối hợp với mặt trận quân sự và chính trị.
Tổng thống Mỹ Johnson.
28/1. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh trả lời phỏng vấn nhà báo Australia Winfred Burchet: "Nếu Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom miền Bắc Việt Nam thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) có thể nói chuyện với Mỹ".
29/9. Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson tuyên bố công thức San Antonio về vấn đề nói chuyện với VNDCCH.
29/12. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh tuyên bố: "Sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom miền Bắc Việt Nam, VNDCCH sẽ nói chuyện với Mỹ về những vấn đề liên quan".
Năm 1968
30 và 31/1. Lực lượng giải phóng tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân ở toàn miền Nam.
31/3. Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson đọc diễn văn về việc ném bom hạn chế miền Bắc Việt Nam và đề nghị nói chuyện với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH).
3/4. Sau nhiều cuộc tiếp xúc bí mật mang tính "tiền trạm" của phía Mỹ, Chính phủ VNDCCH tuyên bố "sẽ cử đại diện tiếp xúc với đại diện Mỹ".
2/5. VNDCCH và Mỹ thỏa thuận lấy thành phố Paris làm điểm tiếp xúc sau một cuộc tranh luận kéo dài gần một tháng.
13/5. Hội nghị Paris giữa phái đoàn VNDCCH và Mỹ chính thức bắt đầu tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế, phố Kléber. Mỹ cử Averell Harriman và Cypruc Vance, hai nhà ngoại giao kỳ cựu, làm trưởng và phó đoàn. Ngoài ra còn có hai chuyên gia khác về Việt Nam là Philippe Habib và W.Jordan. Phía VNDCCH có ông Xuân Thủy, từng nắm trọng trách Bộ trưởng Ngoại giao làm trưởng đoàn, phó đoàn là ông Hà Văn Lâu, nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ngoài ra còn có luật gia Phan Hiền, phó tổng biên tập báo Nhân Dân Nguyễn Thành Lê và ông Nguyễn Minh Vỹ, người từng tham gia Hội nghị Geneva 1961-1962 về Lào.
Lập trường của Mỹ thời kỳ đầu đàm phán là: Cần có sự tham gia của phái đoàn Chính phủ Sài Gòn, Bắc Việt Nam không vi phạm khu phi quân sự, không bắn pháo hay tên lửa vào các thành phố lớn ở miền Nam như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Phía VNDCCH phản đối những đòi hỏi đó và đòi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và để Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia hội đàm.
3/6. Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, cố vấn đặc biệt của phái đoàn VNDCCH Lê Đức Thọ tới Paris.
8/9. Bắt đầu cuộc tiếp xúc riêng giữa cố vấn Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thủy với các ông Harriman và Cypruc Vance.
Ông Lê Đức Thọ và ông Kissinger.
21/10. Bộ trưởng Xuân Thủy thông báo Hà Nội chấp nhận hội nghị bốn bên giữa VNDCCH, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN), Mỹ và Việt Nam Cộng hòa (VNCH).
31/10. Tổng thống Johnson tuyên bố với nhân dân Mỹ: "Chấm dứt mọi việc ném bom bằng không quân, hải quân và bắn phá bằng pháo binh chống miền Bắc Việt Nam bắt đầu từ ngày 1/11/1968", bất chấp sự phản đối của Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu.
Tổng thống Mỹ Richard Nixon.
6/11. Ứng viên đảng Cộng hòa Richard Nixon đắc cử Tổng thống Mỹ.
27/11. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu chấp nhận tham dự Hội nghị Paris cùng với Mỹ, VNDCCH và MTDTGPMNVN.
7/12. Phái đoàn VNCH do ông Nguyễn Cao Kỳ làm cố vấn, ông Phạm Đăng Lâm làm trưởng đoàn rời Sài Gòn đi Paris dự hội nghị.
10/12. Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cử phái đoàn đi dự Hội nghị Paris do ông Trần Bửu Kiếm làm trưởng đoàn, bà Nguyễn Thị Bình làm phó trưởng đoàn.
Năm 1969
25/1. 10h30" sáng, hội nghị bốn bên: VNDCCH, MTDTGPMNVN, Mỹ và VNCH khai mạc trọng thể tại Paris, 5 ngày sau khi Tổng thống Lyndon Johnson rời khỏi Nhà Trắng.
23/2. Richard Nixon ra lệnh ném bom “đất thánh” của “Việt Cộng” ở Campuchia.
8/3. Đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge tới gặp riêng Bộ trưởng Xuân Thủy. Sau đó ông ta đảm trách vị trí trưởng đoàn Mỹ tại Hội nghị Paris thay ông Harriman.
8/5. Phái đoàn MTDTGPMNVN do Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thị Bình đứng đầu đưa ra "Giải pháp hòa bình 10 điểm".
14/5. Tổng thống Mỹ Richard Nixon đưa ra "Đề nghị tám điểm".
Biểu tình phản đối chiến tranh trước Lầu Năm Góc.
6/6. Thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
8/6. Tổng thống Mỹ gặp ông Nguyễn Văn Thiệu ở đảo Midway và ra tuyên bố về đợt rút quân Mỹ đầu tiên gồm 25.000 binh sĩ khỏi miền Nam Việt Nam, bước đầu thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
4/8. Ông Henry Kissinger bí mật gặp ông Xuân Thủy lần đầu tiên ở Paris.
15/10. Bắt đầu đợt “tạm ngừng hoạt động” ở Mỹ để phản đối chiến tranh Việt Nam. Biểu tình rầm rộ diễn ra ở hầu khắp các thành phố lớn trên đất Mỹ.
3/11. Nixon tuyên bố sẽ giải quyết vấn đề Việt Nam bằng thương lượng hoặc thông qua "Việt Nam hóa chiến tranh".
Năm 1970
Tháng 1. Ban chấp hàng Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định đẩy mạnh đấu tranh toàn diện ở miền Nam Việt Nam từ cuối năm 1970 và 1971, chuẩn bị cho bước quyết định vào năm 1972.
Cố vấn Lê Đức Thọ và Henry Kissinger.
Cố vấn Lê Đức Thọ và ông Henry Kissinger.
21/2. Cố vấn Lê Đức Thọ, Bộ trưởng Xuân Thủy gặp ông Henry Kissinger cùng Richard Smyer, chuyên gia về vấn đề Việt Nam, và tướng V. Walters. Bắt đầu các cuộc gặp riêng Lê Đức Thọ và Kissinger.
Tháng 3. Bộ chính trị Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam quyết định đẩy mạnh tấn công quân sự, chính trị và ngoại giao, đòi thành lập chính phủ liên hiệp ở miền Nam.
4/5. Cảnh sát Mỹ bắn chết 4 sinh viên phản đối chiến tranh Việt Nam ở Đại học Kent. 5 ngày sau, biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam nổ ra khắp nước Mỹ.
Sinh viên Đại học Kent bị bắn chết.
Sinh viên Đại học Kent bị bắn chết trong cuộc biểu tình.
17/9. Tại phiên họp toàn thể lần thứ 80 Hội nghị Paris, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đưa ra giải pháp "Tám điểm / nói rõ thêm" về Việt Nam, trong đó có việc rút quân Mỹ và thả tù binh cùng một thời hạn, thành lập chính phủ Liên hiệp Lâm thời ở miền Nam Việt Nam.
18/10. Tổng thống Mỹ Nixon đưa ra "Đề nghị năm điểm" mà không đòi quân miền Bắc rút khỏi miền Nam Việt Nam.
10/12. Tại phiên họp toàn thể lần thứ 94 Hội nghị Paris, bà Nguyễn Thị Bình đưa ra "Tuyên bố ba điểm" về ngừng bắn và yêu cầu quân Mỹ rút khỏi miền Nam vào ngày 31/7/1971.
Năm 1971
21/4. Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai mời Tổng thống Mỹ Richard Nixon thăm Bắc Kinh sau màn "ngoại giao bóng bàn" giữa Mỹ và Trung Quốc.
31/5. Tại cuộc gặp riêng với ông Xuân Thủy, ông Kissinger đưa ra đề nghị “cuối cùng” bảy điểm, đòi tách riêng vấn đề quân sự và vấn đề chính trị, mặc dù trước đây Mỹ định bàn cả hai.
26/6. Phái đoàn VNDCCH đưa ra "Đề nghị chín điểm".
1/7. Tại hội nghị bốn bên, Chính phủ Cách mạng Lâm thời CHMNVN đưa ra "Đề nghị bảy điểm" đòi quân Mỹ rút ra khỏi miền Nam Việt Nam trong năm 1971.
Kisinger gặp Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai.
Ông Kisinger gặp Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai tại Bắc Kinh.
9/7. Kissinger tới Trung Quốc làm tiền trạm cho Tổng thống Nixon đi thăm chính thức Bắc Kinh.
13/7. Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai bí mật sang Hà Nội thông báo việc Kissinger đi Bắc Kinh.
16/8. Tại cuộc gặp riêng ở Trung Quốc, Kissinger đưa ra "Đề nghị tám điểm". Về cơ bản Mỹ vẫn giữ lập trường cũ: Không muốn giải quyết toàn bộ mà chỉ muốn giải quyết vấn đề quân sự để lấy được tù binh về.
20/11. Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng thăm Bắc Kinh.
Năm 1972
25/1. Tổng thống Mỹ Nixon đơn phương công bố nội dung các cuộc gặp riêng và "Đề nghị tám điểm" đưa ra hôm 16/8/1971.
31/1. Phái đoàn VNDCCH công bố "Đề nghị chín điểm" đã trao cho ông Kissinger ngày 26/6/1971, tố cáo Nhà Trắng vi phạm thỏa thuận giữa hai bên không công bố các nội dung cuộc họp riêng theo đề nghị của chính ông Kissinger. Dư luận xôn xao.
Tổng thống Mỹ Nixon gặp Chủ tịch Mao Trạch Đông tại Bắc Kinh.
17/2. Tổng thống Mỹ Richard Nixon lên đường thăm Trung Quốc. Sau đó Trung Quốc và Mỹ ra Thông cáo chung Thượng Hải.
22/3. Mỹ đơn phương tuyên bố ngừng họp Hội nghị Paris vô thời hạn.
30/3. Mở màn cuộc tấn công chiến lược Xuân - Hè, quân giải phóng miền Nam mở các cuộc tấn công lớn từ Quảng Trị đến Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ.
6/4. Tổng thống Mỹ Richard Nixon hạ lệnh ném bom trở lại miền Bắc Việt Nam.
15/4. Mỹ ném bom tại miền Bắc.
2/5. Các ông Lê Đức Thọ và Xuân Thủy gặp lại ông Kissinger tại Paris. Toàn tỉnh Quảng Trị được giải phóng.
8/5. Mỹ thả mìn các cảng và phong tỏa miền Bắc.
Tháng 6. Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam quyết định chuyển sang chiến lược hòa bình.
13/7. Mỹ chấp nhận họp lại hội nghị toàn thể bốn bên ở Paris.
19/7. Tại cuộc gặp riêng, Việt Nam và Mỹ đều đưa ra tuyên bố về chính sách chung. Cuộc thương lượng bí mật giữa Lê Đức Thọ và Kissinger đi vào thực chất.
1/8. Mỹ đưa ra "Đề nghị 12 điểm", VNDCCH đưa ra "Đề nghị 10 điểm".
14/8. Đoàn VNDCCH trao cho Mỹ văn kiện khẳng định lại một số nguyên tắc: Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược, mọi sự dính líu về quân sự ở Việt Nam, mọi sự can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam, tôn trọng quyền tự quyết và quyền độc lập thực sự của Việt Nam; Phải thừa nhận thực tế ở miền Nam Việt Nam có 2 chính quyền, 2 lực lượng vũ trang và 3 lực lượng chính trị, cần lập một chính phủ hòa hợp dân tộc ba thành phần.
8/10. Phái đoàn VNDCCH đưa cho phía Mỹ dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” và hai bên thảo luận cụ thể từng điều khoản.
11/10. Trong cuộc gặp riêng giữa Lê Đức Thọ và Xuân Thủy với Kissinger kéo dài từ sáng ngày 11 đến 2 giờ sáng ngày 12/10, hai bên đã thảo luận về dự thảo hiệp định và lịch trình sau: 18/10 chấm dứt ném bom và thả mìn ở miền Bắc, 19/10 ký tắt Hiệp định tại Hà Nội, 26/10 ký chính thức tại Paris và 27/10 ngừng bắn ở Việt Nam.
13/10. Phía Mỹ thông báo cho đoàn Việt Nam rằng Tổng thống Nixon đã chấp nhận bản dự thảo hai bên đã bàn.
20/10. Tổng thống Mỹ Richard Nixon gửi công hàm cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng và khẳng định “Văn bản hiệp định xem như đã hoàn thành” và cho biết ông Henry Kissinger sẽ đi Hà Nội ngày 24/10, 30/10 ký hiệp định. Mỹ lập cầu hàng không mang tên “Enhance Plus” tiếp tế ồ ạt vũ khí cho Sài Gòn.
21/10. Thủ tướng Phạm Văn Đồng trả lời Tổng thống Nixon rằng, sẵn sàng ký hiệp định, đồng ý thời gian biểu của Nixon nêu.
23/10. Mỹ lại nêu ra nhiều trở ngại để trì hoãn việc ký Hiệp định. Nixon gửi công hàm đề nghị hai bên có cuộc gặp riêng để bàn thêm và báo Kissinger hoãn chuyến đi Hà Nội.
Lính Mỹ hồ hởi với tuyên bố "Hòa bình trong tầm tay".
26/10. Chính phủ VNDCCH công bố các văn kiện Việt Nam và Mỹ đã thỏa thuận và đòi Mỹ ký văn bản đó. Henry Kissinger tuyên bố “Hòa bình trong tầm tay”.
2/11. Richard Nixon ra lệnh B52 tấn công phía Bắc khu phi quân sự.
7/11. Richard Nixon tái đắc cử Tổng thống Mỹ.
20/11. Thương lượng lại: Mỹ đòi sửa đổi hầu hết các vấn đề thực chất trong tất cả các chương theo yêu cầu của chính quyền Sài Gòn.
13/12. Thương lượng bế tắc. Hai bên ngừng họp để xin chỉ thị của chính phủ mình.
18/12. Tổng thống Mỹ Nixon cho máy bay chiến lược B52 ném bom Hà Nội, Hải Phòng, mở đầu chiến dịch mang mật danh “Cuộc hành quân Lineblacker II” kéo dài 12 ngày đêm. Đồng thời, Washington gửi công hàm cho Việt Nam đề nghị họp lại. Hà Nội không trả lời.
22/12. Mỹ lại gửi công hàm yêu cầu họp lại với điều kiện Mỹ sẽ chấm dứt ném bom trên vĩ tuyến 20.
26/12. VNDCCH đòi trở lại tình hình trước ngày 18/12 thì hai bên mới họp lại. Mỹ chấp nhận.
30/12. Đúng 7 giờ sáng, Washington tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ bắc vĩ tuyến 20 và đề nghị nối lại đàm phán ở Paris. Nixon đưa quan điểm "cần đạt được một giải pháp dù đối phương đưa ra những điều kiện khắt khe" và chấp thuận tất cả những gì đã chối từ, kể cả một kết quả đàm phán ngoài mong muốn.
Năm 1973
8/1. Họp lại ở Paris. Ông Kissinger muốn xét lại về các vấn đề các quyền cơ bản của Việt Nam nhưng bị bác bỏ.
Cố vấn Lê Đức Thọ và Kissinger ký tắt Hiệp định Paris.
Ông Lê Đức Thọ và ông Kissinger ký tắt Hiệp định Paris.
10/1. Kissinger yêu cầu “điều chỉnh” lại lực lượng ở miền Nam Việt Nam (tức rút quân miền Bắc), nhưng cũng bị bác bỏ.
13/1. Các bên hoàn thành văn bản của hiệp định. Kết thúc những đợt gặp riêng giữa cố vấn Lê Đức Thọ và cố vấn Henry Kissinger.
16/1. Tổng thống Nixon gửi thư cho ông Nguyễn Văn Thiệu, coi chính quyền của ông Thiệu là hợp pháp duy nhất ở miền Nam Việt Nam.
23/1. Mỹ chấp nhận ký hiệp định Paris không điều kiện. Lê Đức Thọ và Kissinger tiến hành ký tắt hiệp định.
27/1. Bốn bên chính thức ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và 4 nghị định thư liên quan. Tham gia lễ ký có đại diện của VNDCCH là Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, đại diện Mỹ là Ngoại trưởng William P. Rogers, đại diện của MTDTGPMNVN là Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thị Bình và đại diện cho chính quyền Sài Gòn, Tổng trưởng Ngoại giao Nguyễn Văn Lắm.
Hiệp định Paris về Việt Nam có 9 chương với 23 điều khoản. Trong đó, những điều mục quan trọng nhất là:
Điều 1 (Chương I): "Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như hiệp định Genève năm 1954 về Việt Nam đã công nhận".
Điều 3 (Chương II) mục b: "Các lực lượng vũ trang của hai bên miền Nam Việt Nam sẽ ở nguyên vị trí của mình".
Điều 4 (Chương II): "Hoa Kỳ sẽ không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam".
Điều 5 (Chương II): "Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi ký Hiệp định này, sẽ hoàn thành việc rút khỏi miền Nam Việt Nam mọi quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, kể cả nhân viên quân sự kỹ thuật, nhân viên quân sự liên quan đến chương trình bình định, các loại vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác".
28/1. Ngừng bắn trên toàn miền Nam Việt Nam. Hiệp định Paris chính thức được thi hành.
30/1. Tổng thống Richard Nixon gửi công hàm cho VNDCCH về việc Mỹ sẽ đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam.
8/2. Cố vấn Henry Kissinger tới thăm Hà Nội.
21/2. Ký Hiệp định Vientiane về chấm dứt chiến tranh ở Lào.
2/3. Đại diện 12 chính phủ tham gia Hội nghị Quốc tế về Việt Nam tại Paris, với sự có mặt của Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, ký Định ước Paris về Việt Nam.
29/3. Người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam.
Năm 1975
Xe tăng quân giải phóng húc đổ cổng Dinh Độc lập.
30/4. Giải phóng Sài Gòn.
15/11. Tại Sài Gòn, hai đoàn đại biểu miền Bắc và miền Nam họp Hội nghị Hiệp thương bàn việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
Năm 1976
2/7. Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời.
Đình Chính (tổng hợp)
Việt Báo (Theo_VnExpress.net)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét