9.24.2008
Ngày 2 tháng 9 năm 1945 ở Sài gòn
Lao Động số 202 Ngày 03/09/2008 Cập nhật: 7:44 AM, 03/09/2008
(LĐ) - Tôi có vinh dự được nhiều lần theo đoàn cán bộ, nhân dân Long An đi thăm Giáo sư (GS) Trần Văn Giàu nhân các ngày lễ, tết, ngày mừng thọ ông.
Dù tuổi cao, sức yếu (ông sinh năm 1911), nhưng lần nào ông cũng nhiệt tình trò chuyện với những người đến thăm. Mỗi lần, khi nhắc về ngày lễ Độc lập 2.9.1945, ông hào hứng hẳn lên, như quên đi tuổi già...
Vào thời điểm 2.9.1945 ông là Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ, Chủ tịch Uỷ ban Khởi nghĩa Nam Bộ, Chủ tịch Uỷ ban Hành chính lâm thời (UBHCLT) Nam Bộ. Trước đó, ngày 25.8.1945 ông và các đồng chí đã lãnh đạo nhân dân Sài Gòn khởi nghĩa giành chính quyền thành công.
Ông cho biết, ngày 31.8.1945 T.Ư điện vào cho biết vào lúc 2 giờ chiều ngày 2.9, tại Hà Nội, Chính phủ lâm thời nước VNDCCH sẽ ra mắt quốc dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ đọc Tuyên ngôn Độc lập. UBHCLT Nam Bộ quyết định tổ chức lễ Độc lập tại Sài Gòn vào đúng thời điểm đó để nghe trực tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập truyền đi từ Hà Nội. Chỉ có hơn 1 ngày chuẩn bị, UBHCLT Nam Bộ đã tổ chức được một cuộc míttinh, diễu hành lớn chưa từng thấy ở Sài Gòn.
Hàng triệu người dân TP và các địa phương lân cận đã tập trung trước nhiều giờ trên đại lộ Cộng Hoà (nay là đại lộ Lê Duẩn) để chờ giờ khai lễ. Cả TP tràn ngập màu cờ cách mạng và các khẩu hiệu "Nước VNDCCH muôn năm", "Độc lập hay là chết", "Đả đảo thực dân Pháp"... viết bằng 5 thứ tiếng Việt, Anh, Pháp, Hoa, Nga. Thế nhưng, thời điểm khai mạc lễ Độc lập ở Hà Nội đã trôi qua 30 phút mà Sài Gòn vẫn không bắt được tín hiệu radio (sau này mới biết do thời tiết ngày hôm ấy quá xấu, phương tiện kỹ thuật lạc hậu, nên không bắt được sóng).
Ban tổ chức hội ý chớp nhoáng và phân công ông Trần Văn Giàu thay mặt UBHCLT Nam Bộ phát biểu trước đồng bào. Đây là nội dung nằm ngoài dự kiến. Ông Trần Văn Giàu suy nghĩ vài phút, ghi vội mấy ý chính rồi ứng khẩu bài diễn văn trước hàng triệu người dân TP. Ông kêu gọi nhân dân đoàn kết xung quanh Chủ tịch Hồ Chí Minh, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mưu đồ của thực dân Pháp.
Sáng hôm sau, báo chí ở Sài Gòn đăng toàn văn hoặc trích đăng bài phát biểu của ông, trong đó có đoạn như: "VN từ một nước thuộc địa đã trở thành một nước độc lập... VN đang tiến bước trên con đường sống". Sau đó, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - Bộ trưởng Bộ Y tế - đã thay mặt Chính phủ lâm thời nước VNDCCH tuyên thệ "Xây dựng độc lập hoàn toàn cho VN".
Đại diện nhân dân Sài Gòn đã đọc tiếp lời thề: Không đi lính cho Pháp - không làm việc cho Pháp - không bán lương thực cho Pháp - không dẫn đường cho Pháp! Giọng của GS Trần Văn Giàu bỗng chùng xuống khi kể phần cuối của lễ Độc lập: Thực dân Pháp từ trên các nhà lầu cao đã bắn lén vào các đoàn tuần hành, làm 47 đồng bào chết và bị thương, tuy vậy ta rất kềm chế, chỉ tạm giữ những kẻ tình nghi, không có bất cứ hành động đánh đập hay trả thù.
Đánh giá về ngày lễ Độc lập ở Sài Gòn, GS Trần Văn Giàu cho rằng, khát vọng độc lập suốt gần 100 năm đã làm cho cả triệu người như một, hừng hực ý chí chiến đấu, hy sinh cho vận mệnh đất nước.
GS Trần Văn Giàu cho biết, thực dân Pháp đã gây hấn ngay trong ngày lễ Độc lập ở Sài Gòn; những ngày sau, chúng càng khiêu khích trắng trợn.
Việc gì đến rồi cũng đến, chưa đầy 1 tháng sau UBHCLT Nam Bộ đã buộc phải lãnh đạo nhân dân Nam Bộ bước vào cuộc kháng chiến mùa thu, khởi đầu cho cuộc kháng chiến 9 năm gian khổ chống thực dân Pháp xâm lược trên cả nước. Sau ngày hoà bình lập lại trên một nửa đất nước, cuộc đời của vị Chủ tịch UBHCLT Nam Bộ đã rẽ sang hướng khác: Nghiên cứu lịch sử, triết học, dạy học...
Ở lĩnh vực mới này, ông cũng gặt hái nhiều thành công: Trở thành Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân, Anh hùng Lao động, giải thưởng HCM với hàng loạt những công trình, tác phẩm rất có giá trị.
Giáo sư Trần Văn Giàu vừa hiến tặng toàn bộ kho sách, tư liệu trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, với hàng chục ngàn cuốn sách quý cho Bảo tàng tỉnh Long An - quê hương ông. Trước đó, ông đã dành phần lớn tài sản vật chất của mình để thành lập Giải thưởng Trần Văn Giàu - giải thưởng dành cho các công trình lịch sử của vùng đất Nam Bộ. Ông không có con, vợ ông đã qua đời cách đây mấy năm. Ông đang sống trong tình yêu thương, sự chăm sóc của nhân dân TPHCM - nơi 63 năm trước ông đã có bài diễn văn đáng nhớ trước hàng triệu đồng bào.
Kỳ Quan
(LĐ) - Tôi có vinh dự được nhiều lần theo đoàn cán bộ, nhân dân Long An đi thăm Giáo sư (GS) Trần Văn Giàu nhân các ngày lễ, tết, ngày mừng thọ ông.
Dù tuổi cao, sức yếu (ông sinh năm 1911), nhưng lần nào ông cũng nhiệt tình trò chuyện với những người đến thăm. Mỗi lần, khi nhắc về ngày lễ Độc lập 2.9.1945, ông hào hứng hẳn lên, như quên đi tuổi già...
Vào thời điểm 2.9.1945 ông là Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ, Chủ tịch Uỷ ban Khởi nghĩa Nam Bộ, Chủ tịch Uỷ ban Hành chính lâm thời (UBHCLT) Nam Bộ. Trước đó, ngày 25.8.1945 ông và các đồng chí đã lãnh đạo nhân dân Sài Gòn khởi nghĩa giành chính quyền thành công.
Ông cho biết, ngày 31.8.1945 T.Ư điện vào cho biết vào lúc 2 giờ chiều ngày 2.9, tại Hà Nội, Chính phủ lâm thời nước VNDCCH sẽ ra mắt quốc dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ đọc Tuyên ngôn Độc lập. UBHCLT Nam Bộ quyết định tổ chức lễ Độc lập tại Sài Gòn vào đúng thời điểm đó để nghe trực tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập truyền đi từ Hà Nội. Chỉ có hơn 1 ngày chuẩn bị, UBHCLT Nam Bộ đã tổ chức được một cuộc míttinh, diễu hành lớn chưa từng thấy ở Sài Gòn.
Hàng triệu người dân TP và các địa phương lân cận đã tập trung trước nhiều giờ trên đại lộ Cộng Hoà (nay là đại lộ Lê Duẩn) để chờ giờ khai lễ. Cả TP tràn ngập màu cờ cách mạng và các khẩu hiệu "Nước VNDCCH muôn năm", "Độc lập hay là chết", "Đả đảo thực dân Pháp"... viết bằng 5 thứ tiếng Việt, Anh, Pháp, Hoa, Nga. Thế nhưng, thời điểm khai mạc lễ Độc lập ở Hà Nội đã trôi qua 30 phút mà Sài Gòn vẫn không bắt được tín hiệu radio (sau này mới biết do thời tiết ngày hôm ấy quá xấu, phương tiện kỹ thuật lạc hậu, nên không bắt được sóng).
Ban tổ chức hội ý chớp nhoáng và phân công ông Trần Văn Giàu thay mặt UBHCLT Nam Bộ phát biểu trước đồng bào. Đây là nội dung nằm ngoài dự kiến. Ông Trần Văn Giàu suy nghĩ vài phút, ghi vội mấy ý chính rồi ứng khẩu bài diễn văn trước hàng triệu người dân TP. Ông kêu gọi nhân dân đoàn kết xung quanh Chủ tịch Hồ Chí Minh, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mưu đồ của thực dân Pháp.
Sáng hôm sau, báo chí ở Sài Gòn đăng toàn văn hoặc trích đăng bài phát biểu của ông, trong đó có đoạn như: "VN từ một nước thuộc địa đã trở thành một nước độc lập... VN đang tiến bước trên con đường sống". Sau đó, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - Bộ trưởng Bộ Y tế - đã thay mặt Chính phủ lâm thời nước VNDCCH tuyên thệ "Xây dựng độc lập hoàn toàn cho VN".
Đại diện nhân dân Sài Gòn đã đọc tiếp lời thề: Không đi lính cho Pháp - không làm việc cho Pháp - không bán lương thực cho Pháp - không dẫn đường cho Pháp! Giọng của GS Trần Văn Giàu bỗng chùng xuống khi kể phần cuối của lễ Độc lập: Thực dân Pháp từ trên các nhà lầu cao đã bắn lén vào các đoàn tuần hành, làm 47 đồng bào chết và bị thương, tuy vậy ta rất kềm chế, chỉ tạm giữ những kẻ tình nghi, không có bất cứ hành động đánh đập hay trả thù.
Đánh giá về ngày lễ Độc lập ở Sài Gòn, GS Trần Văn Giàu cho rằng, khát vọng độc lập suốt gần 100 năm đã làm cho cả triệu người như một, hừng hực ý chí chiến đấu, hy sinh cho vận mệnh đất nước.
GS Trần Văn Giàu cho biết, thực dân Pháp đã gây hấn ngay trong ngày lễ Độc lập ở Sài Gòn; những ngày sau, chúng càng khiêu khích trắng trợn.
Việc gì đến rồi cũng đến, chưa đầy 1 tháng sau UBHCLT Nam Bộ đã buộc phải lãnh đạo nhân dân Nam Bộ bước vào cuộc kháng chiến mùa thu, khởi đầu cho cuộc kháng chiến 9 năm gian khổ chống thực dân Pháp xâm lược trên cả nước. Sau ngày hoà bình lập lại trên một nửa đất nước, cuộc đời của vị Chủ tịch UBHCLT Nam Bộ đã rẽ sang hướng khác: Nghiên cứu lịch sử, triết học, dạy học...
Ở lĩnh vực mới này, ông cũng gặt hái nhiều thành công: Trở thành Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân, Anh hùng Lao động, giải thưởng HCM với hàng loạt những công trình, tác phẩm rất có giá trị.
Giáo sư Trần Văn Giàu vừa hiến tặng toàn bộ kho sách, tư liệu trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, với hàng chục ngàn cuốn sách quý cho Bảo tàng tỉnh Long An - quê hương ông. Trước đó, ông đã dành phần lớn tài sản vật chất của mình để thành lập Giải thưởng Trần Văn Giàu - giải thưởng dành cho các công trình lịch sử của vùng đất Nam Bộ. Ông không có con, vợ ông đã qua đời cách đây mấy năm. Ông đang sống trong tình yêu thương, sự chăm sóc của nhân dân TPHCM - nơi 63 năm trước ông đã có bài diễn văn đáng nhớ trước hàng triệu đồng bào.
Kỳ Quan
9.12.2008
Nước cờ sai của Tổng thống Gruzia
08:22:00 11/08/2008
Lời kêu gọi ngưng chiến lần thứ 2 của Tổng thống Gruzia Mikhail Saakashivili ngày 10/8 xem ra không còn mấy hiệu lực. Súng vẫn nổ, lửa vẫn cháy ở Nam Ossetia và đang tiếp tục lan dần sang Gruzia cho dù Tbilisi tuyên bố rút quân khỏi thủ phủ Tskhinvali, nhường lại quyền kiểm soát cho quân đội Nga.
Vượt khỏi tầm kiểm soát
Đêm 9/10, tại văn phòng làm việc ở New York, Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon đã bày tỏ lo ngại bạo lực leo thang ở vùng Caucasus. Ông kêu gọi Hội đồng Bảo an LHQ phải ngay lập tức tìm ra giải pháp hòa bình thông qua đối thoại.
Nguy cơ về một cuộc chiến lan rộng, bắt nguồn từ xung đột Nam Ossetia đang trở nên hữu hình hơn khi lực lượng ly khai ở một số khu vực ly khai khác của Gruzia là Abkhazia cũng tấn công quân đội nước này. Thậm chí, chính quyền Abkhazia còn yêu cầu LHQ cho rút lực lượng quan sát quân sự (UNOMIG) và tuyên bố không kích, nã pháo về phía lực lượng Gruzia tại đèo Kodori.
Theo ước tính của cả hai phía, con số người thiệt mạng và bị thương sau 3 ngày giao chiến đã lên tới gần 2.000 người trong đó phần lớn là dân thường; gần 3.000 người khác đang rời khỏi Nam Ossetia tới các vùng khác ở Gruzia trong khi 5.000 người khác vượt biên giới sang Nga.
Hãng thông tấn Ria Novosti cho biết, cũng từ ngày 9/10, Nga đã điều động quân đội tới hỗ trợ lực lượng cho Nam Ossetia. Cho đến sáng 10/10, máy bay Nga đã tấn công một số thành phố gồm cả Gori ở miền Trung Gruzia. Moskva khẳng định, chỉ khi nào Tbilisi rút quân về vị trí họ nắm giữ ở bên ngoài Nam Ossetia thì Nga mới chấp nhận một thỏa thuận ngừng bắn mới.
Theo nhiều nguồn tin từ Gruzia, Nga đã đánh bom gần khu vực sân bay quốc tế Tbilisi và đang tiếp tục đưa thêm 6.000 quân vào Gruzia bằng đường bộ cùng với 4.000 quân bằng được biển để chuẩn bị cho các cuộc tấn công mới. Hạm đội Biển Đen nổi tiếng của Nga gồm 1 tàu từ căn cứ Sebastopol và 4 tàu tới từ Novorosslysk hiện cũng đã tiến sát tới bờ biển Gruzia. Trên không, cứ 15 phút, các máy bay tiêm kích Nga lại tuần tra dọc biên giới.
Bị bao vây từ nhiều phía, một mặt vẫn tiếp tục tìm sự hỗ trợ từ nước ngoài, mặt khác, chính quyền Tbilisi vẫn đấu khẩu với Moskva. Tổng thống Gruzia Mikhail Saakashivili có lúc còn kích động dân chúng bằng lời tuyên bố rằng "Chúng ta đang tiến hành chiến tranh với người Nga". Tuy nhiên, sau khi Quốc hội nước này phê chuẩn sắc lệnh ban bố tình trạng chiến tranh và áp dụng thiết quân luật trên cả nước trong vòng 15 ngày, ông Mikhail Saakashvili lại xuống giọng bằng lời kêu gọi ngừng bắn ngay lập tức.
Nhiều thường dân thiệt mạng trong các cuộc giao tranh giữa Nga - Gruzia sáng 10/8.
Nước cờ sai của ông Saakashvili
Xung quanh chiến sự ở Nam Ossetia, có rất nhiều ý kiến trái ngược nhau. Tuy nhiên, phần đông mọi người đều cho rằng, Tổng thống Mikhail Saakashvili đã quá ngang ngược khi chọn đúng thời điểm các nhà lãnh đạo thế giới có mặt tại Trung Quốc tham dự lễ khai mạc Olympic Bắc Kinh 2008 để nổ súng vào Tskhinvali. Dẫu biết, căng thẳng, xung đột giữa Gruzia và Nam Ossetia cũng như Abkhazia đã tái diễn liên tục trong nhiều tháng qua, song không phải các quốc gia nào cũng đồng tình với quan điểm của Tbilisi.
Hơn thế nữa, nhiều nhà quan sát chính trị còn nhấn định rằng, ông Mikhail Saakashvili đã nhìn nhận sai vấn đề về khả năng ủng hộ Gruzia của Mỹ, Anh và một số nước Tây Âu. Nằm ở phía Nam Caucasus, Nam Ossetia có vùng địa thể thuận lợi và là nơi giàu tiềm năng dầu mỏ. Nhưng nhiều thập kỷ qua, luật bất thành văn đã được hình thành rằng, Caucasus nằm trong lòng bàn tay của Moskva. Vì vậy, dù có "thèm thuồng" đến mấy thì Mỹ, Anh cũng như các quốc gia Tây Âu cũng không dám có thái độ "chọc giận" người Nga. Thay vào đó, họ đã lợi dụng những bất đồng giữa Moskva và các nước Đông Âu để thổi bùng ngọn lửa mâu thuẫn.
Gruzia hay Ukraine chỉ là những nước cờ nhỏ trong bàn cờ lớn mà thôi. Cái lợi duy nhất mà Tbilisi mang đến cho Mỹ, Anh và Tây Âu là quốc gia này là điểm trung chuyển dầu cực kỳ quan trọng từ vùng Caspi và Trung Á tới châu Âu và Mỹ. Đây cũng là con đường duy nhất không dính dáng đến hai cường quốc dầu khí là Nga và Iran... Nhưng nếu đặt trên bàn cân, để đánh đổi 269km đường ống chạy qua Gruzia này với sự hợp tác kinh tế, năng lượng của Moskva thì cả Mỹ và Tây Âu đều phải cân nhắc thiệt hơn. Họ cần Gruzia cho tuyến đường ống dẫn dầu song họ lại không thể để mất quan hệ tốt nhất ở mức có thể với Nga.
Do đó, khi Gruzia tự đặt mình vào cuộc chiến ở Nam Ossetia, Mỹ, Anh không hề vội vàng có thái độ phản ứng gay gắt. Ngay cả khi Tbilisi yêu cầu Mỹ trợ giúp 1.000 quân điều đến từ Iraq, Washington vẫn im lặng. Sự ủng hộ của phương Tây với Tổng thống Mikhail Saakashvili giờ đây chỉ có thể là những lời kêu gọi ngừng bắn, kiềm chế…
Gruzia đã lên kế hoạch cho cuộc chiến ở Nam Ossetia?
Báo chí Nga ngày 10/8 cho biết, trước khi nổ súng vào thủ phủ Tskhinvali của Nam Ossetia, Gruzia đã lên kế hoạch tỉ mỉ cho một cuộc chiến nhằm giành lại chủ quyền và vị thế ở vùng Caucasus.
Một tháng trước, Tbilisi đã chuyển tới khu vực Nam Ossetia gần 20 xe tải binh sĩ, nhiều xe thiết giáp, bệ phóng tên lửa… Quân đội Gruzia tham chiến lần này cũng là một trong những đội quân được đạo tạo kỹ nhất với sự chi viện của Mỹ và phương Tây. Đa số các sĩ quan đều đã trải qua các khoá đào tạo ở Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ.
Hơn thế nữa, Gruzia còn nhận được sự ủng hộ của một số nước như Pháp, Estonia, Israel, Serbia, Bosni, CH Czech, Ukraine… Đó là chưa kể đến khoản tiền 40 triệu USD mà Mỹ đã viện trợ cho Tbilisi trong chương trình "Cung cấp trợ giúp quân sự cho nước ngoài".
Ukraine tham chiến
Chiều 10/8, chính phủ Ukraine đã khiến tình hình ở Nam Ossetia thêm phần căng thẳng khi đe dọa sẽ tấn công tàu hải quân của Nga từ căn cứ ở Crimea. Lý do được Kiev đưa ra là họ nhằm bảo vệ vùng bờ biển của quốc gia láng giềng Gruzia.
Trong thông báo đăng tải trên website của Bộ Ngoại giao Ukraine, chính quyền Kiev tuyên bố sẽ sử dụng quân đội nước này vào cuộc chiến ở Nam Ossetia. Được biết, trong những năm qua, Ukraine đã viện trợ không hoàn lại cho Gruzia gần 400 xe tăng và xe bọc thép, 150 khẩu pháo và súng cối, cùng hàng chục máy bay quân sự.
Huyền Chi
Lời kêu gọi ngưng chiến lần thứ 2 của Tổng thống Gruzia Mikhail Saakashivili ngày 10/8 xem ra không còn mấy hiệu lực. Súng vẫn nổ, lửa vẫn cháy ở Nam Ossetia và đang tiếp tục lan dần sang Gruzia cho dù Tbilisi tuyên bố rút quân khỏi thủ phủ Tskhinvali, nhường lại quyền kiểm soát cho quân đội Nga.
Vượt khỏi tầm kiểm soát
Đêm 9/10, tại văn phòng làm việc ở New York, Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon đã bày tỏ lo ngại bạo lực leo thang ở vùng Caucasus. Ông kêu gọi Hội đồng Bảo an LHQ phải ngay lập tức tìm ra giải pháp hòa bình thông qua đối thoại.
Nguy cơ về một cuộc chiến lan rộng, bắt nguồn từ xung đột Nam Ossetia đang trở nên hữu hình hơn khi lực lượng ly khai ở một số khu vực ly khai khác của Gruzia là Abkhazia cũng tấn công quân đội nước này. Thậm chí, chính quyền Abkhazia còn yêu cầu LHQ cho rút lực lượng quan sát quân sự (UNOMIG) và tuyên bố không kích, nã pháo về phía lực lượng Gruzia tại đèo Kodori.
Theo ước tính của cả hai phía, con số người thiệt mạng và bị thương sau 3 ngày giao chiến đã lên tới gần 2.000 người trong đó phần lớn là dân thường; gần 3.000 người khác đang rời khỏi Nam Ossetia tới các vùng khác ở Gruzia trong khi 5.000 người khác vượt biên giới sang Nga.
Hãng thông tấn Ria Novosti cho biết, cũng từ ngày 9/10, Nga đã điều động quân đội tới hỗ trợ lực lượng cho Nam Ossetia. Cho đến sáng 10/10, máy bay Nga đã tấn công một số thành phố gồm cả Gori ở miền Trung Gruzia. Moskva khẳng định, chỉ khi nào Tbilisi rút quân về vị trí họ nắm giữ ở bên ngoài Nam Ossetia thì Nga mới chấp nhận một thỏa thuận ngừng bắn mới.
Theo nhiều nguồn tin từ Gruzia, Nga đã đánh bom gần khu vực sân bay quốc tế Tbilisi và đang tiếp tục đưa thêm 6.000 quân vào Gruzia bằng đường bộ cùng với 4.000 quân bằng được biển để chuẩn bị cho các cuộc tấn công mới. Hạm đội Biển Đen nổi tiếng của Nga gồm 1 tàu từ căn cứ Sebastopol và 4 tàu tới từ Novorosslysk hiện cũng đã tiến sát tới bờ biển Gruzia. Trên không, cứ 15 phút, các máy bay tiêm kích Nga lại tuần tra dọc biên giới.
Bị bao vây từ nhiều phía, một mặt vẫn tiếp tục tìm sự hỗ trợ từ nước ngoài, mặt khác, chính quyền Tbilisi vẫn đấu khẩu với Moskva. Tổng thống Gruzia Mikhail Saakashivili có lúc còn kích động dân chúng bằng lời tuyên bố rằng "Chúng ta đang tiến hành chiến tranh với người Nga". Tuy nhiên, sau khi Quốc hội nước này phê chuẩn sắc lệnh ban bố tình trạng chiến tranh và áp dụng thiết quân luật trên cả nước trong vòng 15 ngày, ông Mikhail Saakashvili lại xuống giọng bằng lời kêu gọi ngừng bắn ngay lập tức.
Nhiều thường dân thiệt mạng trong các cuộc giao tranh giữa Nga - Gruzia sáng 10/8.
Nước cờ sai của ông Saakashvili
Xung quanh chiến sự ở Nam Ossetia, có rất nhiều ý kiến trái ngược nhau. Tuy nhiên, phần đông mọi người đều cho rằng, Tổng thống Mikhail Saakashvili đã quá ngang ngược khi chọn đúng thời điểm các nhà lãnh đạo thế giới có mặt tại Trung Quốc tham dự lễ khai mạc Olympic Bắc Kinh 2008 để nổ súng vào Tskhinvali. Dẫu biết, căng thẳng, xung đột giữa Gruzia và Nam Ossetia cũng như Abkhazia đã tái diễn liên tục trong nhiều tháng qua, song không phải các quốc gia nào cũng đồng tình với quan điểm của Tbilisi.
Hơn thế nữa, nhiều nhà quan sát chính trị còn nhấn định rằng, ông Mikhail Saakashvili đã nhìn nhận sai vấn đề về khả năng ủng hộ Gruzia của Mỹ, Anh và một số nước Tây Âu. Nằm ở phía Nam Caucasus, Nam Ossetia có vùng địa thể thuận lợi và là nơi giàu tiềm năng dầu mỏ. Nhưng nhiều thập kỷ qua, luật bất thành văn đã được hình thành rằng, Caucasus nằm trong lòng bàn tay của Moskva. Vì vậy, dù có "thèm thuồng" đến mấy thì Mỹ, Anh cũng như các quốc gia Tây Âu cũng không dám có thái độ "chọc giận" người Nga. Thay vào đó, họ đã lợi dụng những bất đồng giữa Moskva và các nước Đông Âu để thổi bùng ngọn lửa mâu thuẫn.
Gruzia hay Ukraine chỉ là những nước cờ nhỏ trong bàn cờ lớn mà thôi. Cái lợi duy nhất mà Tbilisi mang đến cho Mỹ, Anh và Tây Âu là quốc gia này là điểm trung chuyển dầu cực kỳ quan trọng từ vùng Caspi và Trung Á tới châu Âu và Mỹ. Đây cũng là con đường duy nhất không dính dáng đến hai cường quốc dầu khí là Nga và Iran... Nhưng nếu đặt trên bàn cân, để đánh đổi 269km đường ống chạy qua Gruzia này với sự hợp tác kinh tế, năng lượng của Moskva thì cả Mỹ và Tây Âu đều phải cân nhắc thiệt hơn. Họ cần Gruzia cho tuyến đường ống dẫn dầu song họ lại không thể để mất quan hệ tốt nhất ở mức có thể với Nga.
Do đó, khi Gruzia tự đặt mình vào cuộc chiến ở Nam Ossetia, Mỹ, Anh không hề vội vàng có thái độ phản ứng gay gắt. Ngay cả khi Tbilisi yêu cầu Mỹ trợ giúp 1.000 quân điều đến từ Iraq, Washington vẫn im lặng. Sự ủng hộ của phương Tây với Tổng thống Mikhail Saakashvili giờ đây chỉ có thể là những lời kêu gọi ngừng bắn, kiềm chế…
Gruzia đã lên kế hoạch cho cuộc chiến ở Nam Ossetia?
Báo chí Nga ngày 10/8 cho biết, trước khi nổ súng vào thủ phủ Tskhinvali của Nam Ossetia, Gruzia đã lên kế hoạch tỉ mỉ cho một cuộc chiến nhằm giành lại chủ quyền và vị thế ở vùng Caucasus.
Một tháng trước, Tbilisi đã chuyển tới khu vực Nam Ossetia gần 20 xe tải binh sĩ, nhiều xe thiết giáp, bệ phóng tên lửa… Quân đội Gruzia tham chiến lần này cũng là một trong những đội quân được đạo tạo kỹ nhất với sự chi viện của Mỹ và phương Tây. Đa số các sĩ quan đều đã trải qua các khoá đào tạo ở Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ.
Hơn thế nữa, Gruzia còn nhận được sự ủng hộ của một số nước như Pháp, Estonia, Israel, Serbia, Bosni, CH Czech, Ukraine… Đó là chưa kể đến khoản tiền 40 triệu USD mà Mỹ đã viện trợ cho Tbilisi trong chương trình "Cung cấp trợ giúp quân sự cho nước ngoài".
Ukraine tham chiến
Chiều 10/8, chính phủ Ukraine đã khiến tình hình ở Nam Ossetia thêm phần căng thẳng khi đe dọa sẽ tấn công tàu hải quân của Nga từ căn cứ ở Crimea. Lý do được Kiev đưa ra là họ nhằm bảo vệ vùng bờ biển của quốc gia láng giềng Gruzia.
Trong thông báo đăng tải trên website của Bộ Ngoại giao Ukraine, chính quyền Kiev tuyên bố sẽ sử dụng quân đội nước này vào cuộc chiến ở Nam Ossetia. Được biết, trong những năm qua, Ukraine đã viện trợ không hoàn lại cho Gruzia gần 400 xe tăng và xe bọc thép, 150 khẩu pháo và súng cối, cùng hàng chục máy bay quân sự.
Huyền Chi
9.06.2008
Kỷ niệm 63 năm cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9: Có một đoàn quân như thế
Đó là giai đoạn thập niên 80 và 90 của thế kỷ trước. Còn bây giờ, người đội trưởng ấy đã đeo quân hàm cấp tá 4 sao với chức vụ Lữ đoàn trưởng Đoàn Nghi lễ 781 (cấp Lữ đoàn). Đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân thuộc Quân khu Thủ đô.
Tôi cũng lại quả quyết rằng, nhiều người, kể cả người viết bài này chưa hiểu sâu về họ. Biết chăng, cũng chỉ là sơ sơ, đại loại: Họ là những quân nhân “gạo cội” được chọn từ các đơn vị chiến đấu. Nếu thuộc lớp tân binh cũng phải lựa chọn kỹ càng. Vì thế mới hình thành một đội quân oai phong, “bảnh trai”, vinh dự đại diện cho Quân đội nhân dân Việt Nam Anh hùng nghênh đón nguyên thủ quốc gia của tất cả các nước trên hành tinh này khi tới Việt Nam.
Với Đoàn Quân nhạc thì khỏi nói, thật “hoành tráng” gồm toàn những nhạc sĩ, nhạc công “cự phách” hòa tấu quốc thiều của tất cả các quốc gia có quan hệ ngoại giao với Việt Nam... Rồi nữa, hình như tất cả họ đều là “lính cậu”, an nhàn, “bám” thủ đô “mút mùa” không phải xông pha chiến trận...
Rất may, người viết bài này có 2 người bạn thuộc lớp nghĩa vụ quân sự năm 1963 được tuyển thẳng về Đoàn 781. Và cũng năm đó, cả 2 người đều vinh dự được tham gia Đội Danh dự trong buổi Bác Hồ đón Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Lưu Thiếu Kỳ sang thăm Việt Nam. Đó là anh Vũ Xuân Thìn và Bùi Đình Kiên. Nhờ 2 anh mà từ chỗ biết, tôi đã hiểu, gọi là “hơi bị” sâu về họ – một Binh chủng đặc biệt thuộc Lực lượng vũ trang, có bề dày lịch sử không ngờ, đáng nể – 63 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành (20/8/1945 - 20/8/2008).
Thì ra, những hiểu biết của tôi trước đây về họ chỉ là phiến diện, cảm tính. Ngoài nhiệm vụ nghi lễ quốc gia (đơn vị danh dự và quân nhạc), họ còn đảm nhiệm nhiều việc quan trọng khác. Họ đâu phải “lính cậu” chỉ “bám trụ” ở thủ đô, mà ngay từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, rồi tới chống Mỹ, trong hòa bình, họ đã từng có mặt ở nhiều địa bàn, nhiều chiến trường, góp phần bảo vệ an toàn căn cứ địa cách mạng, bảo vệ Bác Hồ, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, các cơ quan quan trọng của Đảng; bám theo các đoàn quân chủ lực ra trận, trong đó có đoàn “Tây Tiến” năm xưa. Rồi sau khi hòa bình, thống nhất đất nước, họ lại có mặt trên chiến trường nước bạn Campuchia...
Tôi ngưỡng mộ họ ngay từ những ngày xa xưa ở chiến trường. Bởi thế, sau ngày giải phóng miền Nam, trở về Hà Nội đúng mùa hoa trắng. Cái hình bông hoa y như chiếc kèn xung trận của người lính, tôi đã cảm tác bài thơ “Mùa hoa loa kèn” có mấy câu kết như sau: “...Một thoáng mơ màng hoa gợi nhớ Thuở chiến tranh/ Kèn xung trận giục giã đời lính chiến/ Để hôm nay đứng trước bình hoa trắng/ Ta bâng khuâng giữa rộn rã đô thành”.
Ra đời từ những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám và trưởng thành cùng với sự phát triển của Lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 20/8/1945, Ban Âm nhạc Quân giải phóng ra đời do nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên chỉ huy trên cơ sở Đội nhạc binh dưới chế độ thực dân Pháp với gần 100 nhạc công sớm giác ngộ và đi theo cách mạng.
Chỉ hơn 10 ngày tập luyện, họ đã phục vụ thành công lễ Tuyên ngôn Độc lập vào sáng 2/9/1945 tại vườn hoa Ba Đình, tạo nên điều kỳ diệu. Lần đầu tiên trong lịch sử dựng nước và giữ nước, Quốc thiều Việt Nam Độc lập lan tỏa khắp năm châu, bốn biển báo tin nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Họ là nền móng, tiền thân của Đoàn Quân nhạc Việt Nam ngày nay.
Thời kỳ toàn quốc kháng chiến (12-1946) tới tháng 7/1954, Ban Âm nhạc Quân giải phóng trở thành lực lượng xung kích phục vụ chiến đấu, tham gia các đội tuyên truyền, vận động quần chúng kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trước yêu cầu của cuộc kháng chiến, toàn đơn vị chia thành 2 bộ phận - một bộ phận do đồng chí Kim Liên và Phan Viết Huyền phụ trách tham gia đoàn vũ trang tuyên truyền “Tây Tiến” đi phục vụ chiến trường miền Tây Bắc Tổ quốc. Số còn lại do Đoàn trưởng Đinh Ngọc Liên và Chính trị viên Lê Vân phụ trách hành quân lên chiến khu Việt Bắc phục vụ nghi lễ của Nhà nước và Quân đội.
Lễ tổng duyệt chuẩn bị làm nhiệm vụ.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, kết thúc gần một thế kỷ đô hộ của thực dân Pháp. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, những người lính quân nhạc lại trở về thủ đô phục vụ nghi lễ quốc gia, lễ duyệt binh, tham gia hoạt động tuyên truyền văn hóa cách mạng, tham gia chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, tham gia các trận chiến đấu bằng âm thanh với kẻ địch.
Hẳn đồng bảo miền Nam yêu quý, kể cả những người lính “Cộng hòa” phía bờ nam sông Bến Hải sẽ không quên sự kiện ngày 20/7/1964, từ đầu cầu Hiền Lương phía bắc một dàn âm thanh hoành tráng gồm trống và kèn đồng của các chiến sĩ Quân nhạc Việt Nam đã phát đi những bản nhạc cách mạng hào hùng, góp phần hun đúc, khích lệ ý chí đấu tranh kiên cường, củng cố niềm tin của bà con phía bờ nam đối với hậu phương lớn miền Bắc; át đi những giọng điệu tuyên truyền sặc mùi chiến tranh tâm lý và những nhạc phẩm buồn thảm, não nề phát đi từ phía bờ nam.
Có một bộ phận cùng ra đời với quân nhạc, đó là đơn vị làm công tác bảo vệ căn cứ địa cách mạng, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng và đặc biệt là bảo vệ nơi làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cơ cấu tổ chức một đại đội có bí số là C33 (trực thuộc Tiểu đoàn 144 Bộ Tổng tham mưu, do đồng chí Cao Văn Cổn làm Đại đội trưởng, đồng chí Lê Văn Liêm làm Chính trị viên. Để sau này tách khỏi Bộ Tổng tham mưu về trực thuộc Bộ Tư lệnh Thủ đô mang tên Đội Danh dự do đồng chí Lê Văn Khang, Đại đội trưởng; đồng chí Nguyễn Công Nguyên, Chính trị viên và hai cấp phó là đồng chí Trần Khắc Từ và Đặng Văn Tụ. Rồi sau đó, đơn vị được giao thêm nhiệm vụ kiểm soát quân sự nhằm góp phần duy trì kỷ luật quân đội thời chiến với quân nhân và phương tiện quân sự đi qua thủ đô Hà Nội.
Năm 1970, nâng cấp thành Tiểu đoàn 47 và 5 năm sau, theo Quyết định số 128/QP của Bộ Quốc phòng trở thành Trung đoàn 47 là đơn vị chủ lực của Lực lượng Vũ trang thủ đô làm nhiệm vụ sẵn sàng cơ động chiến đấu và bảo vệ một số mục tiêu quan trọng của Trung ương và Hà Nội. Thay mặt cho toàn quân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: kiểm soát quân sự và nghi lễ danh dự góp phần đảm bảo công tác phục vụ nghi lễ quốc gia, phối hợp các đơn vị chức năng của Lực lượng Công an góp phần bảo vệ an ninh chính trị an toàn xã hội ở địa bàn thủ đô.
Ngày 5/3/1979, theo Sắc lệnh số 28 của Chủ tịch nước, Quân khu Thủ đô được thành lập trên cơ sở Bộ Tư lệnh Thủ đô. Trung đoàn 47 cùng Đoàn Quân nhạc trở thành Đoàn Nghi lễ quốc gia mang bí số Đoàn 781 cơ cấu cấp Trung đoàn. Nay là Lữ đoàn (bao gồm Tiểu đoàn Danh dự, Tiểu đoàn Kiểm soát quân sự, Đoàn quân nhạc (bao gồm cả trường huấn luyện), các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần; Đội pháo lễ và đội công binh. Tới năm 1992, nhận thêm nhiệm vụ nghi thức tang lễ cấp Nhà nước từ Lữ đoàn 144 Bộ Tổng tham mưu chuyển về.
Nhìn vào lịch sử mấy thập niên xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Đoàn 781 cho thấy sự phát triển của họ đến chóng mặt. Ấy là về chức năng nhiệm vụ. Còn hoạt động cụ thể thì sao? Với vốn hiểu biết hạn hẹp của mình về họ, tôi xin được điểm qua một vài sự việc như sau: Chỉ tính từ tháng 3/1977 tới tháng 12/1978, đơn vị kiểm soát quân sự đã cử tới 140.133 lượt cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ ở 16 điểm chốt cả nội và ngoại thành Hà Nội. Phải chấn chỉnh 8.139 trường hợp, trong đó phải xử lý 408 quân nhân vi phạm kỷ luật; cùng thời gian đó, lực lượng danh dự đã cử 15.450 lượt cán bộ, chiến sĩ đón 4 đoàn nguyên thủ quốc gia và nhiều đoàn khách quốc tế vào Việt Nam.
Ngược dòng lịch sử cách đó 10 năm, sự kiện tháng 9/1969 – Quốc tang Chủ tịch Hồ Chí Minh – Đơn vị nghi lễ danh dự còn ở cấp Đại đội – 1/2 lực lượng do Đại đội trưởng Lê Văn Khang, chỉ huy tại Sân bay Gia Lâm, nghênh đón 40 đoàn khách quốc tế vào viếng Bác; số còn lại do Chính trị viên Nguyễn Công Nguyên chỉ huy tại Hội trường Ba Đình, túc trực từ đêm 5/9 tới ngày 9/9 phục vụ 50 vạn lượt người vào viếng và dự lễ truy điệu Bác.
Với lực lượng quân nhạc, chỉ tính hơn 10 năm kể từ khi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta thực hiện chủ trương đổi mới và chính sách ngoại giao rộng mở, đơn vị đã tự biên soạn hơn 1.500 bài giáo khoa cá nhân cho hơn 10 loại nhạc cụ. Hơn 100 quốc ca của các nước đã được Đoàn biên soạn, phối khí, tập luyện để phục vụ khi các đoàn nước ngoài tới Việt Nam.
Riêng giai đoạn này, Đoàn 781 đã hơn 200 lần thực hiện nghi lễ đón nguyên thủ quốc gia cùng đoàn ngoại giao cấp cao nước ngoài và hàng ngàn buổi nghi lễ trong nước. Chỉ đơn cử một số sự kiện diễn ra trong cái mốc thời gian ngắn ngủi nêu trên cũng đủ cho chúng ta thấy cường độ công tác, lao động của cán bộ, chiến sĩ Đoàn 781 tới mức nào.
Điều quan trọng là tất cả những sự kiện chính trị nêu trên diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực đầy biến động phức tạp. Hoạt động khủng bố, gây rối, gây bạo loạn... xảy ra ở nhiều nơi. Các thế lực thù địch sẽ triệt để lợi dụng sự cố ở nước ta vào mục đích phản tuyên truyền nhằm làm giảm uy tín Việt Nam trên trường quốc tế, thì việc đảm bảo tuyệt đối an ninh, an toàn mọi hoạt động của mình, góp phần cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân giữ vững ổn định - chính trị, phát triển kinh tế đất nước trong sự nghiệp đổi mới, thì quả là những chiến công to lớn.
Để ghi nhận chiến công đó, Đảng và Nhà nước, Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy quân sự Trung ương, Bộ Tư lệnh Quân khu Thủ đô đã tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Chiến công, Cờ thi đua tiêu biểu, thi đua xuất sắc... và niềm vui làm nức lòng các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn 781 là sự kiện năm 2001 đơn vị được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ đổi mới.
Song, người viết bài này trộm nghĩ, thành tích đó còn là công lao của các thế hệ cán bộ, đảng viên, văn nghệ sĩ, chiến sĩ, nhân viên toàn đơn vị mà thế hệ hôm nay là đại diện, kế thừa truyền thống của lớp cha anh đi trước. Điển hình cho sự đại diện ấy, tôi muốn nhắc tới vai trò lãnh đạo đơn vị. Đó là Lữ đoàn trưởng Ngô Chí Doanh, con người như số phận sắp bày từ người lính binh nhì của Đoàn 781 (năm 1975) để 25 năm sau (tháng 8/2000) trở thành người chỉ huy cao nhất của toàn lực lượng. Đó là các vị Chính ủy, Thượng tá Phạm Trung Kiên; Lữ đoàn phó, Thượng tá Lê Quang Bắc, Thượng tá Nguyễn Văn Đông, Thượng tá Trần Văn Phức cùng các Đoàn trưởng chính ủy và Phó đoàn trưởng tiền nhiệm: Lê Thế Hùng, Nguyễn Đức Ngẫu, Lê Xuân Sáng, Nguyễn Bá Ngừng, Trần Đình Hoàng, Trần Văn Nấng, Nguyễn Văn Hùng, Phạm Hồng Thái, Nguyễn Xuân Hà, Lê Hồng Nhật, Nguyễn Phúc Diến, Trần Mai Huyên, Nguyễn Văn Hòa, Phạm Hồng Lạc, Phạm Văn Đán. Họ là những sĩ quan trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ và trong xây dựng hòa bình đã chung tay, góp sức lái “con tàu 781” tới bến bờ vinh quang.
Nhân ngày truyền thống của Lữ đoàn, là người lính, vinh dự được khoác 2 màu áo (Quân đội nhân dân và Công an nhân dân) trong không khí tưng bừng cả nước chuẩn bị kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, tôi viết bài này thay cho một lẵng hoa chúc mừng các anh, các đồng chí, những người tôi vô cùng ngưỡng mộ, những người đã góp phần tạo nên diện mạo oai phong của Quân đội nhân dân Việt Nam. Chúc các đồng chí luôn giữ vững và phát huy truyền thống đơn vị Anh hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam Anh hùng, xứng đáng niềm tin yêu của Đảng và nhân dân cả nước
Tôi cũng lại quả quyết rằng, nhiều người, kể cả người viết bài này chưa hiểu sâu về họ. Biết chăng, cũng chỉ là sơ sơ, đại loại: Họ là những quân nhân “gạo cội” được chọn từ các đơn vị chiến đấu. Nếu thuộc lớp tân binh cũng phải lựa chọn kỹ càng. Vì thế mới hình thành một đội quân oai phong, “bảnh trai”, vinh dự đại diện cho Quân đội nhân dân Việt Nam Anh hùng nghênh đón nguyên thủ quốc gia của tất cả các nước trên hành tinh này khi tới Việt Nam.
Với Đoàn Quân nhạc thì khỏi nói, thật “hoành tráng” gồm toàn những nhạc sĩ, nhạc công “cự phách” hòa tấu quốc thiều của tất cả các quốc gia có quan hệ ngoại giao với Việt Nam... Rồi nữa, hình như tất cả họ đều là “lính cậu”, an nhàn, “bám” thủ đô “mút mùa” không phải xông pha chiến trận...
Rất may, người viết bài này có 2 người bạn thuộc lớp nghĩa vụ quân sự năm 1963 được tuyển thẳng về Đoàn 781. Và cũng năm đó, cả 2 người đều vinh dự được tham gia Đội Danh dự trong buổi Bác Hồ đón Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Lưu Thiếu Kỳ sang thăm Việt Nam. Đó là anh Vũ Xuân Thìn và Bùi Đình Kiên. Nhờ 2 anh mà từ chỗ biết, tôi đã hiểu, gọi là “hơi bị” sâu về họ – một Binh chủng đặc biệt thuộc Lực lượng vũ trang, có bề dày lịch sử không ngờ, đáng nể – 63 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành (20/8/1945 - 20/8/2008).
Thì ra, những hiểu biết của tôi trước đây về họ chỉ là phiến diện, cảm tính. Ngoài nhiệm vụ nghi lễ quốc gia (đơn vị danh dự và quân nhạc), họ còn đảm nhiệm nhiều việc quan trọng khác. Họ đâu phải “lính cậu” chỉ “bám trụ” ở thủ đô, mà ngay từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, rồi tới chống Mỹ, trong hòa bình, họ đã từng có mặt ở nhiều địa bàn, nhiều chiến trường, góp phần bảo vệ an toàn căn cứ địa cách mạng, bảo vệ Bác Hồ, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, các cơ quan quan trọng của Đảng; bám theo các đoàn quân chủ lực ra trận, trong đó có đoàn “Tây Tiến” năm xưa. Rồi sau khi hòa bình, thống nhất đất nước, họ lại có mặt trên chiến trường nước bạn Campuchia...
Tôi ngưỡng mộ họ ngay từ những ngày xa xưa ở chiến trường. Bởi thế, sau ngày giải phóng miền Nam, trở về Hà Nội đúng mùa hoa trắng. Cái hình bông hoa y như chiếc kèn xung trận của người lính, tôi đã cảm tác bài thơ “Mùa hoa loa kèn” có mấy câu kết như sau: “...Một thoáng mơ màng hoa gợi nhớ Thuở chiến tranh/ Kèn xung trận giục giã đời lính chiến/ Để hôm nay đứng trước bình hoa trắng/ Ta bâng khuâng giữa rộn rã đô thành”.
Ra đời từ những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám và trưởng thành cùng với sự phát triển của Lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 20/8/1945, Ban Âm nhạc Quân giải phóng ra đời do nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên chỉ huy trên cơ sở Đội nhạc binh dưới chế độ thực dân Pháp với gần 100 nhạc công sớm giác ngộ và đi theo cách mạng.
Chỉ hơn 10 ngày tập luyện, họ đã phục vụ thành công lễ Tuyên ngôn Độc lập vào sáng 2/9/1945 tại vườn hoa Ba Đình, tạo nên điều kỳ diệu. Lần đầu tiên trong lịch sử dựng nước và giữ nước, Quốc thiều Việt Nam Độc lập lan tỏa khắp năm châu, bốn biển báo tin nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Họ là nền móng, tiền thân của Đoàn Quân nhạc Việt Nam ngày nay.
Thời kỳ toàn quốc kháng chiến (12-1946) tới tháng 7/1954, Ban Âm nhạc Quân giải phóng trở thành lực lượng xung kích phục vụ chiến đấu, tham gia các đội tuyên truyền, vận động quần chúng kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trước yêu cầu của cuộc kháng chiến, toàn đơn vị chia thành 2 bộ phận - một bộ phận do đồng chí Kim Liên và Phan Viết Huyền phụ trách tham gia đoàn vũ trang tuyên truyền “Tây Tiến” đi phục vụ chiến trường miền Tây Bắc Tổ quốc. Số còn lại do Đoàn trưởng Đinh Ngọc Liên và Chính trị viên Lê Vân phụ trách hành quân lên chiến khu Việt Bắc phục vụ nghi lễ của Nhà nước và Quân đội.
Lễ tổng duyệt chuẩn bị làm nhiệm vụ.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, kết thúc gần một thế kỷ đô hộ của thực dân Pháp. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, những người lính quân nhạc lại trở về thủ đô phục vụ nghi lễ quốc gia, lễ duyệt binh, tham gia hoạt động tuyên truyền văn hóa cách mạng, tham gia chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, tham gia các trận chiến đấu bằng âm thanh với kẻ địch.
Hẳn đồng bảo miền Nam yêu quý, kể cả những người lính “Cộng hòa” phía bờ nam sông Bến Hải sẽ không quên sự kiện ngày 20/7/1964, từ đầu cầu Hiền Lương phía bắc một dàn âm thanh hoành tráng gồm trống và kèn đồng của các chiến sĩ Quân nhạc Việt Nam đã phát đi những bản nhạc cách mạng hào hùng, góp phần hun đúc, khích lệ ý chí đấu tranh kiên cường, củng cố niềm tin của bà con phía bờ nam đối với hậu phương lớn miền Bắc; át đi những giọng điệu tuyên truyền sặc mùi chiến tranh tâm lý và những nhạc phẩm buồn thảm, não nề phát đi từ phía bờ nam.
Có một bộ phận cùng ra đời với quân nhạc, đó là đơn vị làm công tác bảo vệ căn cứ địa cách mạng, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng và đặc biệt là bảo vệ nơi làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cơ cấu tổ chức một đại đội có bí số là C33 (trực thuộc Tiểu đoàn 144 Bộ Tổng tham mưu, do đồng chí Cao Văn Cổn làm Đại đội trưởng, đồng chí Lê Văn Liêm làm Chính trị viên. Để sau này tách khỏi Bộ Tổng tham mưu về trực thuộc Bộ Tư lệnh Thủ đô mang tên Đội Danh dự do đồng chí Lê Văn Khang, Đại đội trưởng; đồng chí Nguyễn Công Nguyên, Chính trị viên và hai cấp phó là đồng chí Trần Khắc Từ và Đặng Văn Tụ. Rồi sau đó, đơn vị được giao thêm nhiệm vụ kiểm soát quân sự nhằm góp phần duy trì kỷ luật quân đội thời chiến với quân nhân và phương tiện quân sự đi qua thủ đô Hà Nội.
Năm 1970, nâng cấp thành Tiểu đoàn 47 và 5 năm sau, theo Quyết định số 128/QP của Bộ Quốc phòng trở thành Trung đoàn 47 là đơn vị chủ lực của Lực lượng Vũ trang thủ đô làm nhiệm vụ sẵn sàng cơ động chiến đấu và bảo vệ một số mục tiêu quan trọng của Trung ương và Hà Nội. Thay mặt cho toàn quân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: kiểm soát quân sự và nghi lễ danh dự góp phần đảm bảo công tác phục vụ nghi lễ quốc gia, phối hợp các đơn vị chức năng của Lực lượng Công an góp phần bảo vệ an ninh chính trị an toàn xã hội ở địa bàn thủ đô.
Ngày 5/3/1979, theo Sắc lệnh số 28 của Chủ tịch nước, Quân khu Thủ đô được thành lập trên cơ sở Bộ Tư lệnh Thủ đô. Trung đoàn 47 cùng Đoàn Quân nhạc trở thành Đoàn Nghi lễ quốc gia mang bí số Đoàn 781 cơ cấu cấp Trung đoàn. Nay là Lữ đoàn (bao gồm Tiểu đoàn Danh dự, Tiểu đoàn Kiểm soát quân sự, Đoàn quân nhạc (bao gồm cả trường huấn luyện), các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần; Đội pháo lễ và đội công binh. Tới năm 1992, nhận thêm nhiệm vụ nghi thức tang lễ cấp Nhà nước từ Lữ đoàn 144 Bộ Tổng tham mưu chuyển về.
Nhìn vào lịch sử mấy thập niên xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Đoàn 781 cho thấy sự phát triển của họ đến chóng mặt. Ấy là về chức năng nhiệm vụ. Còn hoạt động cụ thể thì sao? Với vốn hiểu biết hạn hẹp của mình về họ, tôi xin được điểm qua một vài sự việc như sau: Chỉ tính từ tháng 3/1977 tới tháng 12/1978, đơn vị kiểm soát quân sự đã cử tới 140.133 lượt cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ ở 16 điểm chốt cả nội và ngoại thành Hà Nội. Phải chấn chỉnh 8.139 trường hợp, trong đó phải xử lý 408 quân nhân vi phạm kỷ luật; cùng thời gian đó, lực lượng danh dự đã cử 15.450 lượt cán bộ, chiến sĩ đón 4 đoàn nguyên thủ quốc gia và nhiều đoàn khách quốc tế vào Việt Nam.
Ngược dòng lịch sử cách đó 10 năm, sự kiện tháng 9/1969 – Quốc tang Chủ tịch Hồ Chí Minh – Đơn vị nghi lễ danh dự còn ở cấp Đại đội – 1/2 lực lượng do Đại đội trưởng Lê Văn Khang, chỉ huy tại Sân bay Gia Lâm, nghênh đón 40 đoàn khách quốc tế vào viếng Bác; số còn lại do Chính trị viên Nguyễn Công Nguyên chỉ huy tại Hội trường Ba Đình, túc trực từ đêm 5/9 tới ngày 9/9 phục vụ 50 vạn lượt người vào viếng và dự lễ truy điệu Bác.
Với lực lượng quân nhạc, chỉ tính hơn 10 năm kể từ khi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta thực hiện chủ trương đổi mới và chính sách ngoại giao rộng mở, đơn vị đã tự biên soạn hơn 1.500 bài giáo khoa cá nhân cho hơn 10 loại nhạc cụ. Hơn 100 quốc ca của các nước đã được Đoàn biên soạn, phối khí, tập luyện để phục vụ khi các đoàn nước ngoài tới Việt Nam.
Riêng giai đoạn này, Đoàn 781 đã hơn 200 lần thực hiện nghi lễ đón nguyên thủ quốc gia cùng đoàn ngoại giao cấp cao nước ngoài và hàng ngàn buổi nghi lễ trong nước. Chỉ đơn cử một số sự kiện diễn ra trong cái mốc thời gian ngắn ngủi nêu trên cũng đủ cho chúng ta thấy cường độ công tác, lao động của cán bộ, chiến sĩ Đoàn 781 tới mức nào.
Điều quan trọng là tất cả những sự kiện chính trị nêu trên diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực đầy biến động phức tạp. Hoạt động khủng bố, gây rối, gây bạo loạn... xảy ra ở nhiều nơi. Các thế lực thù địch sẽ triệt để lợi dụng sự cố ở nước ta vào mục đích phản tuyên truyền nhằm làm giảm uy tín Việt Nam trên trường quốc tế, thì việc đảm bảo tuyệt đối an ninh, an toàn mọi hoạt động của mình, góp phần cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân giữ vững ổn định - chính trị, phát triển kinh tế đất nước trong sự nghiệp đổi mới, thì quả là những chiến công to lớn.
Để ghi nhận chiến công đó, Đảng và Nhà nước, Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy quân sự Trung ương, Bộ Tư lệnh Quân khu Thủ đô đã tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Chiến công, Cờ thi đua tiêu biểu, thi đua xuất sắc... và niềm vui làm nức lòng các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn 781 là sự kiện năm 2001 đơn vị được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ đổi mới.
Song, người viết bài này trộm nghĩ, thành tích đó còn là công lao của các thế hệ cán bộ, đảng viên, văn nghệ sĩ, chiến sĩ, nhân viên toàn đơn vị mà thế hệ hôm nay là đại diện, kế thừa truyền thống của lớp cha anh đi trước. Điển hình cho sự đại diện ấy, tôi muốn nhắc tới vai trò lãnh đạo đơn vị. Đó là Lữ đoàn trưởng Ngô Chí Doanh, con người như số phận sắp bày từ người lính binh nhì của Đoàn 781 (năm 1975) để 25 năm sau (tháng 8/2000) trở thành người chỉ huy cao nhất của toàn lực lượng. Đó là các vị Chính ủy, Thượng tá Phạm Trung Kiên; Lữ đoàn phó, Thượng tá Lê Quang Bắc, Thượng tá Nguyễn Văn Đông, Thượng tá Trần Văn Phức cùng các Đoàn trưởng chính ủy và Phó đoàn trưởng tiền nhiệm: Lê Thế Hùng, Nguyễn Đức Ngẫu, Lê Xuân Sáng, Nguyễn Bá Ngừng, Trần Đình Hoàng, Trần Văn Nấng, Nguyễn Văn Hùng, Phạm Hồng Thái, Nguyễn Xuân Hà, Lê Hồng Nhật, Nguyễn Phúc Diến, Trần Mai Huyên, Nguyễn Văn Hòa, Phạm Hồng Lạc, Phạm Văn Đán. Họ là những sĩ quan trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ và trong xây dựng hòa bình đã chung tay, góp sức lái “con tàu 781” tới bến bờ vinh quang.
Nhân ngày truyền thống của Lữ đoàn, là người lính, vinh dự được khoác 2 màu áo (Quân đội nhân dân và Công an nhân dân) trong không khí tưng bừng cả nước chuẩn bị kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, tôi viết bài này thay cho một lẵng hoa chúc mừng các anh, các đồng chí, những người tôi vô cùng ngưỡng mộ, những người đã góp phần tạo nên diện mạo oai phong của Quân đội nhân dân Việt Nam. Chúc các đồng chí luôn giữ vững và phát huy truyền thống đơn vị Anh hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam Anh hùng, xứng đáng niềm tin yêu của Đảng và nhân dân cả nước
6.17.2008
Giải thưởng Công nghệ thiên niên kỷ 2008:
Robert Langer được bà Tổng thống Phần Lan Tarja Halonen chúc mừng tại Helsinki - Ảnh: AP
Tuoi tre oline Thứ Ba, 17/06/2008, 06:20 (GMT+7)
TT - Các viên thuốc thông minh hay các liều thuốc tiêm không cần kim, tự tiết ra đúng lượng dược phẩm khi cơ thể cần. Chuyện giả tưởng? Hoàn toàn không.
Có nhà khoa học đã chế tạo được vi mạch và các chất polymer để giải phóng chính xác lượng thuốc vào cơ thể bệnh nhân, nhắm đúng những tác nhân gây bệnh. Đó là cách giải thích nôm na công trình đoạt giải thưởng "Công nghệ thiên niên kỷ 2008" (MTP 2008) vừa được công bố tại Helsinki (Phần Lan).
Người thắng giải là giáo sư hóa học Mỹ Robert Langer, 59 tuổi, thuộc Viện Công nghệ Massachusetts (MIT - Mỹ) với công trình "Nghiên cứu vật liệu sinh học thế hệ mới dùng để phân phối thuốc có kiểm soát". Ông đã tìm ra các chất liệu dùng để sản xuất những bộ phận gắn vào cơ thể bệnh nhân, cho phép sử dụng chính xác liều lượng và kiểm soát được sự giải phóng dược phẩm vào cơ thể.
Giáo sư Robert Langer bắt đầu công trình nghiên cứu năm 1974. Ông kể trên The Tech Online (của Viện MIT): "Năm đó, tôi và chuyên gia ung thư Judah Folkman đang tìm cách ngăn không cho các mạch máu phát triển (để chữa trị các khối u ung thư cũng như các dạng bệnh khác làm mù mắt) thì tôi nghĩ ra các vật liệu này". Đầu những năm 1990, các dạng polymer do ông chế tạo bắt đầu được sử dụng để bọc các loại dược phẩm đưa thuốc trực tiếp vào não của bệnh nhân ung thư. Màng xốp này có kích thước như một đồng xu, có thể phân phối dần thuốc chống ung thư trong vùng khối u đã được cắt bỏ và giết chết các tế bào ung thư còn lại. Nó còn được sử dụng để chữa các bệnh về tim mạch và những bệnh khác (tâm thần phân liệt, ung thư tuyến tiền liệt...).
Phương pháp này ít gây tác dụng phụ lên các bộ phận khác so với cách chữa trị truyền thống, do đó có thể gọi đây là một loại thuốc thông minh. Hơn thế nữa, giáo sư Langer cho biết thuốc còn được phân phối ngay tại chỗ khối u hay những tế bào cần nhắm tới nên hiệu quả càng tăng. Chất thuốc này đã làm thay đổi nhiều nhất cách chữa trị cho bệnh nhân ung thư não trong 25 năm qua. Hiện nay trên toàn thế giới có hơn 100 triệu người sử dụng phương pháp truyền thuốc vào cơ thể do ông sáng chế. Chủ tịch hội đồng bình chọn giải thưởng đánh giá: "Những công nghệ mới của giáo sư Langer đã cứu sống và cải thiện cuộc sống hàng triệu bệnh nhân".
Giải thưởng Công nghệ thiên niên kỷ thành lập năm 2002, được xem như một giải Nobel không chính thức trong lĩnh vực công nghệ. Cứ hai năm một lần, giải được trao cho các thành tựu công nghệ cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống con người, cả trong hiện tại và tương lai.
Giải thưởng do Viện Công nghệ Phần Lan, một tổ chức độc lập của ngành công nghiệp Phần Lan, sáng lập với sự hợp tác của chính phủ nước này. Tổng cộng năm nay có 99 cá nhân ở 27 quốc gia được đề cử giải MTP. Giải thưởng đầu tiên (năm 2004) được trao cho Tim Berners-Lee, nhà khoa học của Viện MIT, "cha đẻ” của mạng Internet toàn cầu "World Wide Web". Giải thưởng năm 2006 được trao cho Shuji Nakamura (Nhật Bản) với phát minh công nghệ LED và laser xanh.
Ngoài giải nhất trị giá 800.000 euro, ba công trình vào chung kết cũng được nhận mỗi công trình 115.000 euro, đó là:
* "Công nghệ dấu vân tay" của nhà di truyền học Alec Jeffreys ở Đại học Leicester (Anh). Công nghệ này không chỉ cách mạng hóa ngành khoa học pháp y, mà còn giữ vai trò quan trọng trong việc xác định quan hệ huyết thống và nhiều lĩnh vực khác trong cuộc sống.
* "Thuật toán Viterbi" của giáo sư Andrew Viterbi người Ý gốc Mỹ. Thuật toán của ông giúp tránh các lỗi trong hệ thống truyền thông không dây cũng như trong các thiết bị như điện thoại di động.
* "Bộ khuếch đại EDFA" của ba nhà khoa học gồm: giáo sư David Payne, Đại học Southampton, Anh; tiến sĩ Emmanuel Desurvire, Công ty nghiên cứu & công nghệ Thales, Pháp và tiến sĩ Randy Giles, phòng thí nghiệm Bell, Alcatel-Lucent, New Jersey, Mỹ đã làm thay đổi bộ mặt của ngành viễn thông toàn cầu, đặc biệt là lĩnh vực truyền thông đường dài và tốc độ cao. Giáo sư Bill Wakeham, hiệu phó Đại học Southampton, đánh giá công trình EFFA của bộ ba giáo sư, tiến sĩ trên là một "phát minh quan trọng giúp siêu xa lộ thông tin toàn cầu và hệ thống truyền thông tốc độ cao thành hiện thực, vô cùng có ý nghĩa cho nhân loại thế kỷ 21".
TRẦN ĐỨC THÀNH
(Theo AP, Boston Globe, TTXVN)
6.05.2008
Quỷ Satan mang tên Bill Gates
Đang là thần tượng của không ít người nhưng Bill Gates cũng là kẻ thù không đội trời chung của một số khác. Nhiều người xem ông là anh hùng mã thượng, nhưng cũng có ý kiến xem Gates “chỉ là một kẻ gian hùng, khôn lanh và quỷ quyệt”.
Thậm chí họ còn gọi ông là Quỷ Santan Bill Gates.
Để tránh cái biệt danh “Kẻ làm việc thiện bủn xỉn”, Gates tuyên bố ông cùng vợ thành lập Hiệp hội thư viện Gates trị giá khoảng 200 triệu USD. Tuy nhiên, đó lại là một ví dụ nữa cho thấy ranh giới mập mờ giữa làm từ thiện và chiến lược công ty.
Stewart Alsop, chủ của Agenda, viết trên tờ Fortune hồi tháng 9/1996 rằng ông đã tiên liệu trước cái chết của Netscape. Hệ trình duyệt Internet Explorer của Microsoft mới chỉ lác đác xuất hiện trên thị trường một năm trở lại, thị phần cũng chỉ khoảng 10%. Tuy nhiên, với Alsop, điều đó có nghĩa dự đoán của ông chỉ một hoặc hai năm nữa sẽ thành hiện thực. “Chủ tịch Bill Gates đã biến con vật kếch sù phần mềm (Netscape) trở thành của chẳng đáng một xu” - tuần báo Newsweek viết như vậy trong số cuối năm.
“Chẳng đáng một xu” - đó là lối sáo ngữ trong nội bộ công nghiệp phần mềm. Và nếu đó không phải không đáng một xu như Gates đã phù phép thì ông cũng đã làm đảo lộn cả một lĩnh vực giống như sao đổi ngôi hoặc thay đổi hướng di chuyển giữa chừng, như động tác của Micheal Jordan trên sân bóng rổ. “Gates làm được cái mà chỉ có một vài giám đốc điều hành dám làm” - Jeffrey Katzenberg nhận xét, trong cuộc trả lời phỏng vấn của tờ Newsweek. Katzenberg chính là đồng sáng lập của DreamWorks và đồng thời là đối tác của Gates. “Ông ấy đã kiếm được 8 tỉ USD, một công ty với 20.000 nhân công và làm một cú quay ngoắt đầy bất ngờ''.
Thực sự, Gates phải mất 18 tháng để làm cú đảo ngược tình thế. Và ông không làm điều đó nhiều, vào ngày 7/12, thời điểm tăng tốc nỗ lực trong Microsoft. Đầu năm 1997, Microsoft chỉ là một công ty hầu như kiếm tiền chủ yếu từ hệ điều hành và phần mềm ứng dụng Office, cái mà chính Microsoft thành thật nhìn nhận là “Những ứng dụng năng suất”. Tuy nhiên, báo chí lại viết với một sự kinh ngạc về khả năng của ông như thể ông đã lấy một cỗ xe độc mã rệu rã – một nhà máy sản xuất – rồi tân trang lại để tận dụng lợi thế của thị trường ghế xe hơi bọc da trong tương lai. Ông có thể biến rơm thành vàng. Ông có thể biến nước thành dầu. Ông là nhà phù thủy tài ba. George Gilder chẳng ngại ngần tuyên bố Gates là CEO số một của nước Mỹ.
Tỷ phú Bill Gates. Ảnh: celebrity.
Ở mỗi thời đều có một biểu tượng xứng đáng. Miền tây hoang dã hồi thế kỷ 19 đã cho chúng ta những nhà tư bản cao su. Vào thời tiêu dùng tăng vọt của thập niên 1980, chúng ta được thấy Micheal Milken và Ivan Boesky đã tham lam như thế nào. Rồi cơn bão kiếm tiền của thập niên 1990 đã cho ra đời những kẻ tham công tiếc việc, ngoan cố để kiếm được hàng đống tiền, có khi lên đến hàng chục tỉ đô la. Chúng ta có thể bị chế ngự bởi sự thừa mứa tồi tệ nhất của thập niên 1980, song miễn là các công ty không đổ dầu ra cảng và chúng thực sự làm được điều gì đó thì ở đây vẫn còn cái để yêu. Microsoft là một công ty đáng để chúng ta trân trọng, một công ty không thuốc lá, thân thiện với môi trường, một công ty tạo thế cạnh tranh tuyệt hảo cho nước Mỹ.
Điều gì xảy ra nếu Gates là Thành Cát Tư Hãn của chủ nghĩa tư bản, nếu thỉnh thoảng điểm vào cách ứng xử hung bạo, tàn ác hoặc ít nhất cũng thô lỗ quê kệch của Steve Ballmer. Tiền bạc là câu chuyện của những năm 1990 và những người thực hành có khả năng nhất chính là ông bầu của chúng ta. Vào thời điểm này hoặc thời điểm khác, liệu có ai từng nghĩ cuộc sống sau này của mình sẽ dễ dàng thế nào nếu chỉ, 10 năm trước đó, đã từng mua một chút “tầm nhìn” của người đàn ông này?
Năm 1997, Microsoft đã ra thông cáo báo chí, tuyên bố là công ty Mỹ “hào phóng nhất” đối với các chương trình làm từ thiện. Ngay sau đó, công ty tuyên bố đã tài trợ cả tiền mặt và phần mềm với tổng trị giá lên tới 73,2 triệu USD, và cái tin này đã chiếm cả một trang trên tờ The Wall Street Journal. Có điều, 15% tổng trị giá đó là phần mềm tài trợ cho một tổ chức nhân đạo. Mặt khác, Microsoft đã định giá phần mềm bằng giá bán lẻ, do đó một bản Microsoft Office chỉ tốn từ 1 hoặc 2 USD để đóng gói và dán tem đều được tính giá 599 USD.
Nếu tính theo cách đó, IBM thực sự đã viện trợ nhân đạo hơn Microsoft khoảng 20 triệu USD, trừ một điều, IBM không định tổng giá trị viện trợ theo giá bán lẻ. Có người cho rằng, việc Microsoft tài trợ phần mềm cho trường học hoặc thư viện khó có thể liệt vào hành động viện trợ nhân đạo. “Cho phần mềm là một chiến lược tiếp thị hợp lý” - Tom McNichol bình luận như vậy trên tờ Salon, một trong những tạp chí có uy tín nhất nước Mỹ. “Tuy nhiên, đó không phải là hành động từ thiện, có cái gì còn hơn thế khi Ford Foundation bỏ ra hàng triệu đô la cung cấp bộ phận truyền lực miễn phí mà chỉ thích hợp với các loại xe của hãng Ford”.
Năm 1997, cá nhân Gates tài trợ 20 triệu USD cho Đại học Cambridge để xây dựng tòa nhà mang tên ông. Một năm trước, Gates cũng bỏ ra 15 triệu USD viện trợ cho Đại học Harvard (cũng cùng một mục đích) và 12 triệu USD cho Đại học Washington. Và giới hoạt động nhân đạo coi Gates chẳng hơn gì chính công ty của ông. Quy luật không chính thức là viện trợ chỉ 1% trong tổng thu nhập một năm. Trong một thập niên tính đến năm 1997, Gates đã tài trợ tổng cộng khoảng 70 triệu USD, hoặc 1/3 trong 1% tổng thu nhập của ông vào thời điểm đó.
Trong khi đó, ông ta lại bỏ ra gần một nửa để mua đồ trang sức cho riêng mình, một trong số các bản thảo của danh họa Leonardo da Vinci. Gates giàu đến nỗi có thể qua mặt được cả Chính phủ Italia để mua bản thảo đó với giá 31 triệu USD để khóa vào tủ kính trong nhà riêng của mình. “Không quan trọng là anh có bao nhiêu, vấn đề là anh muốn hơn thế” – Ted Turner trả lời phỏng vấn Larry King sau khi Turner hứa tài trợ 1 tỷ USD cho Liên Hiệp Quốc. “Trong 9 tháng trước, lợi nhuận thực của Turner nhảy từ 2,2 tỷ USD lên tới 3,2 tỷ USD. Và khoản 1 tỷ viện trợ cho Liên Hiệp Quốc, theo ông này, chẳng là cái gì đó to tát. Ngược lại, lợi nhuận thực của Bill Gates tăng thêm 20 tỷ USD trong cùng thời gian.”
Để tránh cái biệt danh “Kẻ làm việc thiện bủn xỉn”, Gates tuyên bố ông cùng vợ thành lập Hiệp hội thư viện Gates trị giá khoảng 200 triệu USD. Tuy nhiên, đó lại là một ví dụ nữa cho thấy ranh giới mập mờ giữa làm từ thiện và chiến lược công ty. Microsoft có thể tài trợ 200 triệu USD bằng phần mềm, song hiệp hội phải dùng hầu hết số tiền để đào tạo nhân sự về việc sử dụng máy vi tính dùng hệ điều hành Windows và trình duyệt Internet Explorer. Đó chính là một món quà nữa không phải ngẫu nhiên đã làm lợi cho Microsoft. Đó đồng thời cũng là khoản thù lao của người đàn ông có tới 40 tỉ USD. Tính đến đầu năm 1998, Gates đã tài trợ tổng số 270 triệu USD, chưa đến 1% tổng thu nhập thực của ông. Một năm sau, Gates và vợ tuyên bố viện trợ thêm 100 triệu USD cho các chương trình tiêm phòng trẻ em ở thế giới thứ ba, chưa tới một nửa trong 1% tổng thu nhập trong năm đó.
Đã nhiều năm, Gates tuyên bố làm từ thiện phần lớn số tiền mình có. “Tôi không có thời gian nghĩ ra nên làm từ thiện cái gì cho có ý nghĩa”, Gates nói vậy, có lẽ ông ta không nhận ra, không ai đặc biệt trong số chúng ta – những người phải toát mồ hôi khi nhìn thấy chồng hóa đơn mỗi tháng, lại có thời gian theo đuổi những việc có ý nghĩa đó. Người đàn ông này nổi tiếng về sức làm việc, người tự hào nói có thể dự 8, 9, thậm chí 12 cuộc họp mỗi ngày, vậy mà lại tuyên bố không có thời gian.
Tất nhiên, ông ta lại có thời gian với một đống việc khác. Vài năm trở về trước, Gates và tỉ phú vùng Seattle, Craig McCaw, đã trở thành đối tác tại Teledesic, một công ty vệ tinh. Gates đồng thời cũng thành lập một công ty lưu trữ ảnh có tên Corbis, nơi quản lý bản quyền kỹ thuật số của bức họa La Giaconda (Mona Lisa) và hàng loạt bức họa nổi tiếng khác, giống như kho lưu trữ Bettman Archive, một bộ sưu tập ảnh toàn diện nhất thế giới. Tại sao không? Đó có thể là cả một tài sản lớn, khi các nhà xuất bản Internet ngày càng có nhu cầu về các bức ảnh được nhiều người ưa thích.
Cái lý do thiếu thời gian của Gates chính là câu đầu tiên các ông chủ phần mềm tin học thốt ra khi ta hỏi tại sao họ không chịu làm từ thiện. Do đó, những nhà tài phiệt trẻ đã tự đầu tư vào chính mình. Brian Pinkerton, 32 tuổi, đã mua ngôi nhà trị giá 600.000 USD ở Atherton (thành phố giàu có thứ sáu nước Mỹ do tạp chí Worth bình chọn) chỉ để phá hủy ngay sau khi anh này có tư cách sở hữu. Điều đó có nghĩa anh này bỏ ra 600.000 USD, cộng với cả phí thu dọn giải phóng mặt bằng, chỉ đổi lấy một mảnh đất không nhà.
Mua nhà để biến thành đống gạch vụn là chuyện thường đến nỗi những người địa phương gọi đó là hợp đồng san nền. Còn Patricia Leigh Brown của The New York Times thì gọi đó là “Hành động xây dựng gây chú ý”. Còn trường hợp của nhà Proulxs, cũng ở Atherton, giàu có chủ yếu nhờ vào vận may của Tom Proulx, đồng sáng lập công ty Intuit. Gia đình Proulxs rất yêu ngôi nhà mình song nó sẽ rất đẹp khi đằng sau là cái sân golf 9 lỗ. Do đó, họ đã mua ba lô đất bên cạnh để xây sân golf và sau đó dùng tổ chức tiệc ngoài trời. Barbara Proulx nói với The New York Times: “Điều đầu tiên tôi làm là đánh bóng qua cửa sổ. Người ta có thể nghe được những âm thanh thích thú khi kính vỡ”.
Một khi bạn truy cập vào trang web về Bill Gates của Marcus, bạn cũng có thể truy cập vào tất cả các trang web liên quan Gates, trong đó có website của Brad Templeton tên “Chỉ số tài sản của Bill Gates” hay trang web mang nội dung rất cuốn hút “Biến tôi giàu hơn Bill Gates” của Jim Denison. Denison, người Texas, cung cấp nhiều sự lựa chọn cho những ai đóng góp vào quỹ của ông. Bạn có thể gửi cho ông ta toàn bộ số tiền (nếu đóng góp 40 tỷ USD, bạn sẽ được coi là “Người bạn suốt đời” của Denison), hoặc 40 người – mỗi người góp cho ông ta 1 tỉ USD, bạn sẽ trở thành “người bạn thân mới của tôi”. Denison viết: “Tài liệu này là trò khôi hài, và không nên xem trọng nếu như bạn không có ý định giúp đỡ biến tôi thành người giàu hơn Bill Gates...”.
Trang web Templeton cho phép bạn so sánh tài sản mình với tài sản Bill Gates. Nếu tài sản của bạn là 100.000 USD, Gates giàu gấp 400.000 lần bạn. Và nếu bạn mua ngôi nhà hết 400.000 USD, ngôi nhà đó chỉ đáng giá 1 USD theo cái mà Templeton gọi là “đôla Gates”. Một máy laptop xịn chỉ đáng giá chưa tới 2 cent tính theo đơn vị “đôla Gates”. Một chuyến du lịch trị giá 10.000 USD tới châu Âu? Tương đương 3 cent! Bạn có thể mua vé máy bay Boeing 747 với giá 1.200 USD.
Tính theo “đôla Gates”, ông chủ Microsoft có thể mua được ba chiếc Boeing, một cho riêng mình, một cho nàng Melinda và một cho đứa nhóc Jennifer Katharine. Động cơ của Richard Petersen không phải là nhắm vào núi tiền của Gates mà là những việc tốt mà Gates có thể làm. Richard Petersen viết trên trang web của mình: “Đầu tiên, tôi chỉ đặt câu hỏi: Gates có thể làm được gì với tất cả tiền của mình.
Tuy nhiên, tôi loại bỏ ý nghĩ đó bởi vì phần lớn những gì mọi người nói là ông ấy nên cho tôi một ít”. Petersen được coi là điển hình của giới xuất bản web. Đầu năm 1996, ông lập công ty Z Publishing, nơi có một phòng duy nhất và hai máy tính trông có vẻ đắt tiền tại San Francisco. Ông ta chẳng hiểu mình kiếm tiền thế nào với nghề xuất bản web, song sau này ông ta cũng chẳng bận tâm đến chuyện đó. Petersen không phải tuýp người giàu mua nhà để đập nhà, song ông ta lại cho đi chút tiền kiếm được từ những ngày làm chủ một doanh nghiệp phần mềm, và ông ta cũng đủ giàu để theo đuổi những sở thích tốn thời gian như lập trang web chửi rủa Bill Gates và nhiều người khác.
Trang web đầu tiên của Petersen là về cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton. Và Gates chỉ là sự lựa chọn thứ ba của Petersen, sau website về Đức Giáo hoàng. Giữa năm 1998, số người xem trang web về Gates nhiều hơn cả trang Bill Clinton và Giáo hoàng cộng lại. Cũng chẳng có gì nhiều trên trang Gates. Chỉ là vài đoạn tiểu sử, vài quan sát thú vị (ví dụ, Gates, với tư cách Chủ tịch Microsoft, đã bán được nhiều đĩa hơn Michael Jackson), và các đường link sang website khác về Gates. Ảnh chụp các lâu đài biệt thự của Gates vẫn chưa hoàn thành, các bài viết thì cóp nhặt từ báo khác, với một số trích dẫn từ một cuốn sách.
Tuy nhiên, Petersen đã chọn cái tên hoàn hảo cho trang web và đặt một tấm ảnh sinh động tạo vẻ cuốn hút ở góc trên của trang: ảnh đầu của Gates gắn với thân hình trần truồng của một vận động viên cử tạ. Ngay lập tức, trang web thu hút được hàng nghìn độc giả mỗi tháng. Trang web Petersen không chỉ là cuốn sách dành cho công chúng mà còn là trang web cá nhân. Bạn có thể gửi thư trực tiếp tới Bill Gates (chỉ cần click vào địa chỉ e-mail của Bill). Góc riêng tư của trang web bị giới hạn truy cập nhưng sẽ chẳng có vấn đề gì nếu bạn biết mã code và cũng chẳng quá khó đối với các “chuyên gia giải mã”. Một số người gửi e-mail cho Gates chỉ để nói rằng ông thật vĩ đại, một số nói ông ta là kẻ khốn kiếp. Tuy nhiên, như Petersen cảnh báo, đa số những người gửi e-mail cho Gates bởi họ thèm muốn tiền của ông.
Ngoài ra, còn có vô số trang web khác nói về đế chế ma quỷ Microsoft và một hiệp hội “Ngăn chặn Bill Gates lấy mọi thứ”. Chưa kể cả một hội chống Internet Explorer. Bạn có thể tham gia vào danh sách chống Microsoft. Thành viên hội này coi Gates như một tên quỷ số một (Evil One) và các sản phẩm của Microsoft là những “Windoze”, “Windblows”, “Winblah” hay “Winshit”. Còn có cả những trang web kêu gọi tẩy chay Microsoft: “Trang web chính thức căm thù Microsoft”; “Tại sao tôi ghét Bill” với lý do “Tiền của Microsoft nói lên tất cả”. Đầu năm 1997, trang “Chặn Gates lại” đã khởi xướng sáng kiến dải băng xanh. Từ đó, tất cả trang web chống Microsoft đều trương lên dải băng màu xanh. Có những website coi Gates như Đức quốc xã. Một số website khác gọi Gates là quỷ Satan và vẫn còn nhiều website lấy mặt Gates làm bao đấm công cộng. Bạn có thể đấm vào ảnh người đàn ông giàu nhất thế giới này khi truy cập vào trang “Đấm Bill Gates”. Ngoài ra, bạn cũng có thể bỏ ra cả ngày chơi game “Billy Killer”. Với trò chơi này, người chơi được bắn vào hình Gates bay lượn như những con vịt. Người chơi càng bắn được nhiều Gates càng được nhiều điểm. Theo thống kê, cụm từ “Giết Bill Gates” xuất hiện nhiều gấp hai lần cụm từ “Giết Bill Clinton” trên Internet.
Chỉ cần bước vào thế giới trên, bạn cũng biết đủ nhiều người nghĩ thế nào về Gates và Microsoft. Tại trang “www.microsuck-.com”, người ta trương khẩu hiệu “Ngày nay bạn muốn copy ai?” (Trong khi khẩu hiệu của Microsoft là: Ngày nay bạn muốn đi tới đâu?). Bản tuyên ngôn nhằm nêu rõ: “Quan điểm chủ yếu của chúng tôi là: Cuộc sống quá ngắn để vùi đầu vào cái mớ Windows 95”. Bạn cũng có thể phung phí thời gian để xem người ta ghét AOL hoặc Intel bằng cách truy cập vào các trang AOL Sucks của Nester hoặc Trang chủ bí mật của Intel.
Tuy nhiên, chỉ có người đàn ông giàu nhất thế giới này – Bill Gates – và những người có thế lực nhất thế giới trong ngành công nghệ máy tính mới thực sự quan tâm tới thái độ thù ghét. Thậm chí, một số trang web còn chứng minh bằng thuật số rằng, Gates là kẻ thù của Chúa bởi vì những chữ cái trong tên của ông được thêm vào 666, (theo Kinh thánh, đó là ký hiệu của quỷ dữ). “Ngày nay, bạn phải làm gì nếu bạn muốn thu hút sự chú ý” – phát ngôn viên Microsoft, Mich Mathews, hỏi. “Bạn tự hỏi tại sao mình lại không chỉ trích Microsoft? Điều đó sẽ khiến mình có tên trên vài tờ báo”. Tuy nhiên, thực tế không đơn giản.
Đối với Mitch Stone, cảm hứng được khơi gợi từ mục quảng cáo của Microsoft trên tờ Los Angeles Times số ra tháng 8-1996, thông báo công ty sẽ phát không trình duyệt của mình. Stone là người dùng trình duyệt Mac và chẳng bao giờ để ý đến Microsoft, dù nó nổi trội hơn cái mà ông đang dùng. Đối với Stone, đó là ví dụ điển hình về thực trạng cá lớn nuốt cá bé. Công ty lớn dùng túi tiền khổng lồ để đàn áp đối thủ nhỏ. Ngay cuối tuần đó, Stone viết một bài kêu gọi tẩy chay Microsoft. Ông đã gửi bài này tới một số bạn bè để rồi họ lại gửi cho những người khác. Và rồi, trang web “Tẩy chay Microsoft” ra đời.
Stone bắt đầu chiến dịch chống Microsoft ở tuổi 42. Chẳng ai ngờ ông lại trở thành nhà hoạt động chống Microsoft, bởi Stone là nhà bảo vệ lịch sử và chỉ dùng đến máy tính khi cần thiết. Tuy nhiên, khi ông truy cập Internet để tìm các website chống Microsoft, những gì trông thấy khiến ông bực mình. “Tôi thấy một đống những cụm từ Giết Bill và một đống những từ ngữ thô tục. Chỉ có một số câu là thận trọng”. Trong vòng vài tháng, trang web của Stone đã thu hút được 1.000 lượt truy cập mỗi ngày. Không giống như những “đồng chí” khác trong sự nghiệp chống Microsoft, Stone là nhà xuất bản web đích thực. Trái với những website khác chỉ có đường nối đến các bài báo về Microsoft, Stone đã xuất bản một danh sách dài các bài báo đặc biệt viết cho website của mình.
Trong nhiều năm, Stone viết được vô số bài, cùng khoảng 10 cây viết khác nữa. Trong một tài liệu mà Stone gọi là “Bản tuyên ngôn”, ông giải thích rằng, ông đã làm công việc xuất bản và biên tập vì báo chí kinh doanh quá bận rộn với việc “nhai lại” những thông cáo báo chí.
Trong khi đó, D. J. Waletzky tạo trang web “Bill Gates là quỷ Satan”, khi còn là học sinh lớp 10 tại Trung học Bronx. Vài tháng trước khi thiết kế trang web này, Waletzky đã thuyết phục cha mẹ mua một máy tính xịn cài hệ điều hành Windows NT. Và ấn tượng của Waletzky về NT không phải là bản thân hệ điều hành mà là máy tính phải tốn rất nhiều năng lượng để chạy cái hệ điều hành chết tiệt NT. Qua Internet, Waletzky biết rằng, Microsoft đã bán NT trong khi họ biết rõ hệ điều hành có nhiều lỗi kỹ thuật. Thậm chí họ còn tuyên bố với công chúng là NT rất hoàn hảo.
Waletzky còn đọc một bài báo cho biết Microsoft sẽ tính tiền bất cứ khi nào có người gọi đến nhờ giúp đỡ. “Khi tôi biết rằng, hỗ trợ kỹ thuật phải mất tới 95 USD cho một lần gọi, nhiều lúc công việc cũng chẳng có gì. Viết hệ điều hành có lỗi đã quá đáng lắm rồi, đằng này lại thu người ta 95 USD phí hỗ trợ sửa những lỗi đó, đây là hành động của kẻ bòn rút”. Mùa thu 1996, Waletzky có bài tập về tạo website. Waletzky nghĩ ngay làm trang web mang nội dung “Tôi ghét (chính khách) Newt Gingrich”. Tuy nhiên, sau đó, anh lại đọc về Gates: phần mềm máy tính đã tự do như thế nào trước khi có Gates và Microsoft làm thế nào để mua hệ điều hành với giá rẻ rồi kiếm về hàng tỉ đô la. Và một ngày sau, trong khi lang thang cùng bạn bè và than vãn hệ điều hành NT làm mình phát nhức đầu, Waletzky chợt buột miệng: “Bill Gates là quỷ Satan”.
Bây giờ, khi Waletzky gọi Quỷ Satan Gates, anh không có ý nói Gates là con quỷ mắt đỏ, mặt có nanh có sọc. Nếu bạn hỏi, Waletzky sẽ nói anh ta là người theo chủ nghĩa xã hội, không tin vào Chúa, cũng chẳng tin vào thế lực ma quỷ nào. “Kẻ khốn nạn” có lẽ là từ gần nhất với những gì Waletzky muốn nói. Kẻ đập cửa xe ăn cắp máy nghe nhạc chính là quỷ Satan. Trong công việc, những kẻ ngu dốt ăn cắp ý tưởng của người khác cũng là quỷ Satan. Và, kẻ có nhiều tiền đến mức trải thảm từ Trái đất đến Mặt trăng được 8 vòng, song vẫn móc túi 95 USD mỗi khi có người cần giúp đỡ, kẻ đó đích thực là “Chúa tể của bóng tối”.
Trên website mang ý nghĩa cộng đồng lớn này, những ngôi làng ảo ấm cúng sẽ làm nguôi cơn giận dữ của thế giới hiện thực. Waletzky chỉ là phần nhỏ trong thế giới những kẻ căm ghét Gates, song nó còn là cái gì đó hơn cả cái mà anh nói xa xôi là “cộng đồng”. Những bức thư qua lại giữa Waletzky và độc giả cho thấy, họ cảm thấy một cái gì đó hơn cả sự thích thú khi nhìn thấy một site mới, đến nỗi nhiều người còn coi nó như “Trang web chính thức thù ghét Microsoft”. Waletzky đã đăng ký vào danh sách thư điện tử “Ghét Microsoft” có địa chỉ (anti-ms@enemy.org). Thỉnh thoảng, số lượng e-mails mà Waletzky nhận được quá nhiều. Tuy nhiên, anh không xóa tên mình bởi vì “bạn có thể học được những thứ bạn không thể tìm được trong tạp chí PC Week”.
(Theo sách Những âm mưu hủy diệt Bill Gates do First News phát hành)
5.19.2008
Câu chuyện những ngôi nhà của Bác Hồ
Tuổi Trẻ Online ngày 18/5/2008
TT- - TT - Ngày 15-10-1954, sau khi quân ta tiến vào thủ đô được năm ngày, Bác bí mật vào Hà Nội và tạm dừng chân ở nhà thương Đồn Thủy (nay là Bệnh viện Trung ương quân đội 108). Lúc này việc chọn cho Bác một chỗ ở riêng được các đồng chí lãnh đạo đặt ra và trao đổi nhiều lần.
ADVERTISEMENT
Nhưng các biệt thự đẹp, sang trọng ở dọc các phố Phan Đình Phùng, Hoàng Diệu, Nguyễn Gia Thiều, Lý Nam Đế... lần lượt có chủ mới. Đó là những cán bộ cấp cao từ chiến khu mới về.
Chọn chỗ của người thợ điện
Trong những ngày ở nhà thương Đồn Thủy, nghe báo cáo về một số dư luận không hay lắm về việc nhà cửa có liên quan đến một vài cán bộ cấp cao, Bác tâm sự với một đồng chí bên cạnh: "Người ta ai cũng muốn có nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con khôn, ăn mặc sung sướng nhưng những cái đó dù sao cũng chỉ là nhất thời, còn tiếng xấu thì còn lại muôn đời, lưu truyền mãi mãi...".
Cuối cùng, Bộ Chính trị cũng quyết định đưa Bác về ở và làm việc tại dinh toàn quyền cũ, ngôi nhà to đẹp nhất nước lúc bấy giờ.
Ngày 15-12-1954, nhân đến thăm bộ đội diễn tập duyệt binh để chuẩn bị tham gia đón Trung ương Đảng và Chính phủ về thủ đô, Bác cùng các đồng chí giúp việc ghé vào thăm nhà mới được phân. Ai cũng nghĩ ngôi nhà này thật sự xứng đáng với Bác. Nhưng một bất ngờ đã xảy ra. Sau khi xem xét cả trong lẫn ngoài, Bác nói với các đồng chí đi cùng: "Ngôi nhà rất đẹp, không thua kém những công trình đẹp nhất ở thủ đô Paris. Các chú cần có kế hoạch quét dọn, sửa chữa để dùng vào việc khác, ví dụ như làm nơi vui chơi cho các cháu thiếu nhi chẳng hạn, còn Bác thì dứt khoát không ở đây".
Sau khi xem xét một số ngôi nhà ở khu vực xung quanh, Bác quyết định chọn chỗ ở cho mình là ngôi nhà cấp bốn của người thợ điện.
Ngày 19-12-1954, nhân kỷ niệm tám năm ngày Hà Nội nổ súng mở đầu kháng chiến toàn quốc, từ nhà thương Đồn Thủy Bác dọn đến nơi mới. Đây là căn nhà mái bằng cách nhà sàn hiện nay khoảng 100m. Nó đã bỏ không khá lâu, hình như là từ sau Hiệp định Genève được ký kết, trong đó có qui định quân Pháp phải rút khỏi Hà Nội sau ba tháng. Do đó mà quanh nhà và lối đi cây và cỏ dại đã mọc đầy.
Bộ phận văn phòng khẩn trương dọn dẹp, làm vệ sinh, nặng nhất là phải cùng nhau khiêng cái máy nổ đang nằm chềnh ềnh chính giữa nhà, dầu mỡ chảy lênh láng, đen kịt, bốc mùi rất khó chịu. Anh em bảo vệ, công vụ, văn phòng nhìn nhau ngao ngán. Bác nhìn thấy nỗi thất vọng của mọi người liền vui vẻ động viên: "Các chú chỉ cần hăng hái làm "cách mạng" trong một ngày là cải tạo xong thôi. Chúng ta sẽ có một chỗ ở đàng hoàng gấp trăm ngàn lần cán bộ và nhân dân hiện nay đang ở".
Chỉ một thời gian ngắn, cảnh vật xung quanh ngôi nhà đã thay đổi hẳn. Con đường vào nhà được rải sỏi. Bác cho trồng hai hàng dâm bụt hai bên đường. Tuy nhiên, do nhà đổ mái bằng nên mùa hè rất nóng, còn mùa đông thì lạnh giá, ánh sáng mặt trời không đủ cho Bác làm việc. Khoảng hơn 3g chiều đã phải thắp đèn. Các đồng chí lãnh đạo mỗi lần đến làm việc rất băn khoăn về nơi ở và làm việc của Bác, nhiều lần đề nghị Bác chuyển nơi khác nhưng Bác vẫn giữ ý kiến của mình. Bác nói với các đồng chí phục vụ: "Hãy nhìn nhân dân sống như thế nào để mà sống cho phù hợp. Sống phù hợp với nhân dân mới hiểu được nhân dân".
Không làm quá to, không dùng gỗ tốt
Bác thỉnh thoảng có đến thăm vài gia đình cán bộ ở những khu biệt thự to trên dưới mười phòng, trang hoàng lộng lẫy như vua chúa ngày xưa, bóng điện từ ngoài cổng cho đến trong nhà có đến vài chục ngọn. Mỗi lần đến thăm như thế, lúc ra về Bác tự nói với mình và cũng muốn cho các đồng chí phục vụ ngồi bên nghe thấy: "Trong lúc nhân dân, cán bộ còn rất nghèo khổ, khó khăn, có gia đình hàng chục nhân khẩu chen chúc trong một căn hộ hơn chục mét vuông mà họ sống trong những biệt thự như vậy mà vẫn phởn phơ, vô cảm. Thật không chịu nổi". Có lần đến thăm như thế, khi ra cửa Bác hỏi chủ nhà: "Nhà nhiều bóng đèn như thế này có hôm nào quên tắt không?".
Sau hơn bốn năm sống và làm việc ở ngôi nhà người thợ điện, sau này là "nhà 54", ngày 18-5-1958 Bác chuyển sang ở ngôi nhà sàn, cũng ở ngay trong khuôn viên Phủ chủ tịch.
Thời gian thi công nhà sàn là thời gian Bác đi công tác nước ngoài trong vòng một tháng. Trước khi đi Bác cho gọi kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh đến căn dặn là phải tiết kiệm, không làm quá to, không dùng gỗ tốt. Tầng dưới nhà sàn sẽ là nơi dùng để họp Bộ Chính trị và tiếp khách quí. Xung quanh làm một hàng ghế ximăng sát tường để dành cho các cháu thiếu nhi mỗi lần Bác mời vào vui chơi với Bác.
Ngôi nhà có hai tầng. Từ tầng một lên tầng hai bằng chiếc cầu thang gỗ 14 bậc. Tầng hai được ngăn làm hai phòng, mỗi phòng khoảng 9m2, một phòng làm việc, một phòng ngủ. Trong phòng làm việc có 1 bàn, 1 ghế và 1 giá sách sát tường chia làm nhiều ô để đựng tài liệu và sách báo. Phòng ngủ có một chiếc giường rộng 1,2m. Bốn góc giường cắm bốn cọc gỗ để mắc màn. Phía đầu giường có hai chiếc gối, một để gối ngủ, còn một để chồng lên gối ngủ cho đầu cao lên mỗi khi Bác đọc sách. Bên cạnh gối là chiếc quạt lá cọ. Bác bảo là để dự phòng khi mất điện hoặc khi đi ra ngoài. Hơn nữa, Bác nói thỉnh thoảng cũng cần phải cho quạt điện nghỉ để dùng được lâu.
Ngôi nhà sàn của Bác đã trở thành một di tích lịch sử quí hiếm, một tài sản tinh thần vô giá đối với các thế hệ mai sau. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng viết: "Cái nhà sàn của Bác vẻn vẹn chỉ có vài ba phòng và trong lúc tâm hồn của Bác lộng gió thời đại thì cái nhà nhỏ đó luôn luôn lộng gió và ánh sáng, phảng phất hương thơm của hoa vườn. Một đời sống như vậy thanh bạch và tao nhã biết bao".
Đại tá THẾ KỶ
(Người giúp việc cho ông VŨ KỲ - thư ký của Bác Hồ)
5.13.2008
Chuyện treo cờ ở dinh độc lập ngày 30/4/1975
Tấm ảnh lịch sử của Francoise Dmulde: Xe 390 húc văng 2 cánh cổng chính, còn xe 843 bị kẹt lại ở cổng phụ. Bùi Quang Thuận nhảy xuống xe (mũi tên) cầm cờ chạy vào Dinh độc lập.
9 giờ ngày 30/4/1975, sau khi đại đội xe tăng chúng tôi bắn cháy chiếc xe M48 của địch trên cầu Sài Gòn, toàn đơn vị đã vượt cầu nhằm hướng Dinh Độc Lập lao tới...
Thú thật lúc ấy tôi cũng chưa biết Dinh Độc Lập nằm ở đâu. Tôi nhớ lại trước đó, tại khu tập kết chiến dịch trong rừng cao su miền Đông, Chính ủy Lữ đoàn Bùi Văn Tùng giao nhiệm vụ cho chúng tôi trên bản đồ du lịch Sài Gòn, căn dặn: “Qua cầu Thị Nghè, đến ngã tư thứ tư thì rẽ trái chạy thẳng, sẽ tới Dinh Độc Lập”.
Vượt qua cầu Sài Gòn, chúng tôi tập trung cao độ quan sát từng góc chết của các khu nhà, những con hẻm, ngách phố, lăm lăm súng đạn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu cao độ, đề phòng sự chống trả của địch...
Đến ngã tư Hàng Xanh, xe tôi rẽ trái. Đi trước là một xe của Đại đội 3 do đồng chí Hùng làm trưởng xe. Tôi phát hiện hai xe M41 của địch ở phía trước trên cầu, chưa kịp xử lý tình huống thì một quầng lửa trùm lên xe của Hùng. Xe Đại đội 3 bốc cháy, Hùng bị thương. Pháo thủ xe tôi đã kịp thời nổ súng bắn cháy cả hai xe M41 của địch ngay tại cầu.
Sau này tôi mới biết, đây là cầu Thị Nghè. Sau khi đưa Hùng và các thành viên trong xe bị thương vào nhà dân gửi tạm, tôi ra lệnh cho xe tiếp tục tiến. Chúng tôi không nhớ mình đã vượt qua bao nhiêu ngã ba, ngã tư để đến trước một công viên có nhiều cây xanh.
Tôi ra lệnh dừng xe, và nhảy ra đứng dưới lòng đường. Từ phía trước, một phụ nữ đi xe máy lao tới. Tôi ra hiệu cho xe dừng lại, nhưng chiếc xe vẫn lao đi như không biết đến cử chỉ của tôi. Trong óc tôi thoáng nghĩ nhanh đây là cơ hội hiếm hoi để hỏi đường. Ngón tay cái tôi hạ phanh chốt an toàn khẩu súng mang theo người, nổ ba phát chỉ thiên. Như đoán được tôi cần gì, chiếc xe máy phanh gấp chững lại. Trước mắt tôi, một phụ nữ khoảng ngoài ba mươi tuổi, mặt mày tái mét. Tôi nói nhẹ nhàng:
- Chị chỉ hộ tôi đường vào Dinh Độc Lập.
- Tôi chỉ xong ông cho tôi đi chứ? - Người phụ nữ vừa nói vừa run.
- Vâng, nói xong, chị hoàn toàn tự do - Tôi khẳng định.
- Ông đang đứng trước Dinh Độc Lập đó - chị nói mà không dám chỉ tay - nó bên trong những cây kia.
Suốt chặng đường tiến vào Dinh Độc Lập, xe tăng 843 do tôi trực tiếp làm trưởng xe luôn dẫn đầu, tiếp sau là xe 390 của Chính trị viên đại đội Vũ Đăng Toàn. Xe tăng 843 tiến đến trước hàng rào Dinh Độc Lập húc thẳng vào cổng phụ bên cạnh cổng chính và khựng lại. Ngay sau đó xe 390 xông lên húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập. Cánh cổng sắt bung ra, xe tôi cũng lao vào theo. Trong Dinh Độc Lập vẫn không thấy có phản ứng gì. Tôi đoán bọn địch đã bỏ chạy.
Nhớ đến nhiệm vụ mà Chính ủy Lữ đoàn đã giao là đơn vị nào vào trước có trách nhiệm cắm cờ và bắt nội các Dương Văn Minh, tôi liền giao lại quyền chỉ huy xe cho đồng chí Thái Bá Minh (là pháo thủ). Tôi rút cần ăngten của xe, trên có lá cờ Mặt trận giải phóng.
Tôi chỉ kịp nói với các thành viên trên xe: “Nếu 10 phút nữa không thấy tôi ở cột cờ thì còn một viên đạn nữa bắn nốt vào Dinh”. Tay phải tôi cầm lá cờ quấn vào cần ăngten chạy thẳng vào Dinh Độc Lập. Lên đến cầu thang, tôi mới cảm thấy lạnh sườn, vì đi một mình, trong tay không có vũ khí. Lúc này, lựu đạn, súng ngắn, AK tôi đều để lại trên xe.
Nhưng để chớp thời cơ, tôi lao thẳng lên tầng 2. Tại căn phòng, từ phía bên phải cầu thang, tôi thấy có người. Tôi lao vào phòng, đầu đập vào cửa kính trong suốt bị choáng, ngã ngồi xuống ngay trước cửa. Trong chốc lát, tôi tỉnh lại, thấy một nhân viên của chính quyền Sài Gòn ra mở cửa, tôi mới biết căn phòng được ngăn bằng cửa kính. Tôi nói gấp:
- Cho gặp Dương Văn Minh ngay.
- Vâng, vâng... Để tôi vào báo tổng thống.
Một lát sau, Dương Văn Minh ra. Tôi quát: “Cho người dẫn tôi lên cột cờ” vừa để trấn áp viên tổng thống. Dương Văn Minh gọi tên nhân viên gặp tôi lúc trước bảo dẫn tôi lên cột cờ.
Tôi được đưa đến trước căn phòng có hai cánh cửa sắt. Người dẫn đường ấn nút điện, hai cánh cửa dẹp về hai phía, bên trong hiện ra một khoang giống như thùng sắt đựng lúa của nông dân.
- Mời ông vào trước.
Tôi nghiêm mặt nhìn người dẫn đường đầy ngờ vực. Như đoán được suy nghĩ của tôi, người dẫn đường giải thích: “Thưa ông, đây là cầu thang máy, lên cho nhanh”. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ, tôi có biết thang máy thế nào đâu. Tôi nói: “Ông vào trước đi, nhớ quay mặt vào trong”. Người dẫn đường đi vào, tôi vào theo.
Tôi có cảm giác được nâng lên. Cánh cửa thang máy mở ra, nhìn thấy cột cờ, tôi lao thẳng đến, kéo dây hạ cờ ba sọc - biểu tượng của chính thể Việt Nam cộng hòa xuống. Do dây buộc quá chặt, cứ khoảng 20cm lại có một móc sắt, tôi lần gỡ được hai móc, sốt ruột quá liền dùng răng cắn mép trên xé rách lá cờ. Lúc này trên sân Dinh Độc Lập, xe tăng bộ binh ta đã tràn vào.
Tôi rút lá cờ Mặt trận giải phóng ở cần ăngten ra buộc vào, kéo lên. Lá cờ bay phần phật trên nóc Dinh Độc Lập trong bầu trời ngập nắng của thành phố Sài Gòn. Rồi tôi hạ cờ xuống, lấy bút máy Trường Sơn mang theo ghi vào góc dưới lá cờ dòng chữ: “11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, bên dưới ghi thêm chữ Thận" rồi lại kéo lá cờ lên. Còn lá cờ của chính quyền Sài Gòn, tôi gấp lại, đem xuống nhét vào hòm kính xe tăng. Sau này giao lại cho cán bộ bảo tàng nhà nước.
Lát sau, tôi thấy trong sân Dinh Độc Lập, ngoài đường phố, bộ đội, nhân dân, cả rừng người, rừng cờ, rừng hoa đang hân hoan đón chào chiến thắng. Việc cắm cờ trên Dinh Độc Lập tôi không làm thì đồng đội, đồng bào của tôi sẽ làm. Riêng với bản thân mình, tôi cảm ơn lịch sử đã ban cho tôi một cơ hội được góp một phần sức lực của mình trong việc giành lại hòa bình độc lập, tự do của dân tộc.
5.11.2008
10 năm đồng euro
Ngày 1.6.1998, 12 quốc gia tại châu Âu đã đồng thuận về việc sử dụng một đồng tiền chung có tên gọi là euro, với hy vọng đó sẽ là đồng tiền mạnh và mang tính ổn định trên toàn cầu. Sắp đến các quốc gia trong khu vực sử dụng đồng euro sẽ tổ chức lễ kỷ niệm 10 năm xuất hiện đơn vị tiền tệ này.
Hiện có 15 quốc gia sử dụng euro làm đồng tiền chính thức: Áo, Bỉ, Phần Lan, Pháp, Đức, Ireland, Ý, Luxembourg, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Slovenia, Cyprus và Malta.
Ngân hàng Trung ương châu Âu được thành lập ngày 1.6.1998. Đồng euro được phát hành vào ngày 1.1.1999 dưới dạng tiền điện tử. Đồng euro chính thức thay thế cho tiền tệ của các nước tham gia vào ngày 1.1.2002.
Tạ Xuân Quan
(Theo BBC)
5.04.2008
Đẳng cấp tình báo Việt Nam
Chúng tôi có may mắn được gặp nhiều nhà tình báo lão thành lừng danh của chúng ta. Đó là ông Hai Trung (Phạm Xuân Ẩn), ông Ba Quốc (Đặng Trần Đức), ông Sáu Trí (Nguyễn Đức Trí), ông Tư Cang (Nguyễn Văn Tào), ông Mười Nho (Nguyễn Xuân Mạnh), ông Ba Minh (Nguyễn Văn Minh), ông Ba Lễ (Nguyễn Văn Lễ) và một số người khác. Báo Thanh Niên đã đăng nhiều loạt ký sự dài kỳ về những chiến công kỳ diệu và những phẩm chất tuyệt vời của họ.
Còn rất nhiều người khác, trong đó có những huyền thoại tình báo, chúng tôi chưa được gặp. Nhưng chỉ với chừng ấy người được tiếp cận, đối chiếu với những gì mà chúng tôi được biết về lịch sử tình báo thế giới, có thể khẳng định đẳng cấp của ngành tình báo cách mạng nước ta không hề thua kém bất cứ nước nào.
Hơn hai mươi năm giữ an toàn tuyệt đối trong lòng địch, tiếp cận và phân tích tất cả những kế hoạch, những âm mưu, thủ đoạn quan trọng nhất của Mỹ trong suốt cuộc chiến tranh để cung cấp cho tổng hành dinh kháng chiến, khó có một nhà tình báo đông tây kim cổ nào hoàn hảo, lý tưởng như Phạm Xuân Ẩn.
Ngang nhiên ở giữa cơ quan tình báo trung ương của đối phương để tả xung hữu đột, làm những chuyện kinh thiên động địa, trong đó có việc báo về tổng hành dinh danh sách 42 ổ gián điệp địch cài ở miền Bắc để xóa sạch chúng, làm trong sạch hậu phương, kỳ tài như ông Ba Quốc ít ai bì kịp.
Hầu như thức trắng suốt một năm rưỡi để kịp chép bằng tay tất cả những tài liệu chiến tranh hàng ngày gửi đến gửi đi của Tổng Tham mưu trưởng quân đội đối phương, đến nỗi hỏng cả hai mắt, cường độ chịu đựng của ông Ba Minh chỉ có thể gọi là phi phàm...
Đó chỉ là một số trong rất nhiều chuyện có thể dẫn chứng.
Nhưng tất cả những người mà chúng tôi đã gặp ai cũng thật thà khiêm tốn, ai cũng bảo "tôi chỉ góp một chút nhỏ xíu thôi, ông kia công mới lớn". Thiên hạ thường đổ lỗi cho nhau, còn ở đây, trong cái ngành thầm lặng tuyệt đối này, ai cũng "đổ công" cho người khác. Theo chúng tôi, trong những di sản của ngành tình báo mà lớp cha chú để lại cho thế hệ sau này, đây cũng là một di sản vô giá. Nó không chỉ vô giá đối với các chiến sĩ tình báo mà vô giá đối với bất kỳ ai làm việc trong một tập thể.
Sự độc đáo ưu việt của ngành tình báo cách mạng Việt Nam. Sự ưu việt đó là, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các điệp viên, cơ quan tình báo và cấp trên đều có một mục tiêu nhất quán: giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng của mình, đem lại sự bình yên, cường thịnh cho đất nước.
Ông Phạm Xuân Ẩn có lần nói với chúng tôi: Một thông tin tình báo do điệp viên gửi về, dù điệp viên đó giỏi đến đâu, thông tin có chính xác đến đâu, cũng chỉ có 50% giá trị. 50% giá trị còn lại là sự sáng suốt của cấp trên. Là người ngoài ngành, chúng tôi rất lâu mới hiểu ý nghĩa lời ông Ẩn nói. Ông Ẩn không hề coi thường sự tài giỏi và chính xác của tình báo Mỹ, nhưng ông coi thường những "cấp trên" của tình báo Mỹ, vì họ dùng tin để phục vụ những mục đích chính trị của phe phái. Ông Ẩn bảo hồi Mậu Thân không phải tình báo Mỹ không có những tin tức quan trọng, nhưng những tin tức đó đã bị Tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn bóp méo đi nhằm phục vụ cho ý đồ của hành pháp che mắt Quốc hội Mỹ. Và loạt bài Đưa ra ánh sáng vụ bê bối tình báo lớn nhất Mỹ - Đức mà Thanh Niên đang đăng tải mấy hôm nay, là bằng chứng mới nhất của việc sử dụng thông tin tình báo giả tạo để làm cái cớ tấn công Iraq. Nói như vậy để thấy sự độc đáo ưu việt của ngành tình báo cách mạng Việt Nam. Sự ưu việt đó là, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các điệp viên, cơ quan tình báo và cấp trên đều có một mục tiêu nhất quán: giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng của mình, đem lại sự bình yên, cường thịnh cho đất nước.
Ngành tình báo của chúng ta đã sản sinh ra những nhà tình báo vĩ đại tầm cỡ thế giới và để lại những di sản, những truyền thống quý giá. Đó là sức mạnh quốc phòng, là sức mạnh của dân tộc. Theo : TNO-Hoàng Hải Vân đăng lại Theo QĐND Olinecuối tuần ngày 25/3/2008.
4.24.2008
Sài Gòn - những phút cuối cùng hoảng loạn
Sài Gòn - những phút cuối cùng hoảng loạn
QĐND Chủ Nhật, 29/04/2007, 10:56 (GMT + 7)
Tháng 4-1975, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam. Sự kiện này cũng đánh dấu thất bại quân sự toàn diện duy nhất trong lịch sử nước Mỹ. Oa-sinh-tơn đã phải bỏ đồng minh để tháo chạy. Phóng viên BBC Brai-ơn Ba-rôn, người trực tiếp đưa tin về cuộc chiến trong sáu năm và chứng kiến chiếc máy bay trực thăng cuối cùng rời Tòa đại sứ Mỹ đã có những kỷ niệm không thể nào quên về những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn...
Cuộc tháo chạy trong sợ hãi
Chưa bao giờ tôi cảm thấy cần một chiếc trực thăng như hồi mùa xuân năm 1975 tại căn cứ không quân Tuy Hòa. Ngoài đường không ra, chẳng có cách nào để tiếp cận điểm “nóng”. Lúc đó, căn cứ này là nơi gần nhất với cuộc triệt thoái quân sự lớn nhất cuối thế kỷ 20. 2000 xe tăng, chiến xa cùng 200 nghìn lính Việt Nam Cộng hòa tán loạn bỏ chạy trước sức mạnh vũ bão của bộ đội Cộng sản. Cuộc tháo chạy này dẫn tới sự sụp đổ nhanh chóng của chính quyền Sài Gòn vài tuần sau đó.
Đánh chiếm Bộ tổng tham mưu ngụy (ảnh tư liệu)
Tôi chạy tới một chiếc Huey đang tiếp nhiên liệu, xin được đi nhờ. Cuối cùng, phi công, một viên thiếu tá đã chán ngấy cuộc chiến, gật đầu ra hiệu cho phép tôi và anh quay phim người Pháp Ê-rích Thai-rơ lên khoang. Vài phút sau, từ độ cao khoảng 300 mét, chúng tôi được chứng kiến đội quân bị bao vây, đang tán loạn trong sợ hãi. Đạn bắn lên từ họng đủ mọi loại súng, từ tiểu liên, trung liên, đại liên tới rốc-két. Chiếc Huey không có cửa sổ, ghế ngồi hay dây an toàn, tất cả được tháo ra để lắp thêm phụ kiện cho cỗ máy giết người. Súng máy từ trên chiếc trực thăng vãi đạn lung tung xuống dưới, chẳng biết trúng vào bên nào.
Nuốt lời hứa
Chỉ vài tuần sau, tôi lại thấy những chiếc trực thăng thật đáng ghét khi quay cảnh chuyến bay cuối cùng của người Mỹ rời Sài Gòn. Chúng tôi quyết tâm ở lại xem bộ đội Cộng sản đánh chiếm thành phố thế nào và cuộc chiến tôi đã đưa tin suốt sáu năm trời kết thúc ra sao. Chiếc trực thăng “cẩu” 10 lính thủy quân lục chiến Mỹ khỏi nóc Tòa đại sứ Mỹ. Lúc đó tầng trệt của tòa nhà trông như một pháo đài này bị những kẻ hôi của đốt phá. Ngoài cổng là một đám đông bu kín, kêu gào đòi được di tản.
Từ trên nóc khách sạn, chúng tôi cũng nhìn thấy sân bay Tân Sơn Nhất bị pháo kích dữ dội. Và hình ảnh đáng nhớ nữa là trên nóc các tòa nhà cao tầng trong thành phố lố nhố những người đang chờ đợi trực thăng đến đưa đi trong tuyệt vọng. Họ là những người được các ông chủ là CIA hay các cơ quan quân sự Mỹ khác hứa sẽ đưa đi di tản. Nhưng trong hỗn loạn, lời hứa đã bị nuốt một cách nhẹ nhàng. Trực thăng chẳng bao giờ đến.
Chúng tôi cảm nhận được những thời khắc cuối của cuộc chiến đã đến khi vữa tường tại phòng thu âm của Đài phát thanh Sài Gòn rơi xuống lả tả. Tôi và E-ríc phải tới tận đó để liên lạc với Luân Đôn do không còn đường dây điện thoại nào hoạt động một cách đáng tin cậy. Tòa nhà rung lên, chiếc mi-crô tung lên trần, bay vèo qua đầu tôi. Vài phút sau tôi mới biết, bộ đội Cộng sản vừa dùng máy bay mới thu được oanh tạc Phủ tổng thống ở ngay đầu con đường.
Tôi chạy tới một chiếc Huey đang tiếp nhiên liệu, xin được đi nhờ. Cuối cùng, phi công, một viên thiếu tá đã chán ngấy cuộc chiến, gật đầu ra hiệu cho phép tôi và anh quay phim người Pháp Ê-rích Thai-rơ lên khoang. Vài phút sau, từ độ cao khoảng 300 mét, chúng tôi được chứng kiến đội quân bị bao vây, đang tán loạn trong sợ hãi. Đạn bắn lên từ họng đủ mọi loại súng, từ tiểu liên, trung liên, đại liên tới rốc-két. Chiếc Huey không có cửa sổ, ghế ngồi hay dây an toàn, tất cả được tháo ra để lắp thêm phụ kiện cho cỗ máy giết người. Súng máy từ trên chiếc trực thăng vãi đạn lung tung xuống dưới, chẳng biết trúng vào bên nào.
Nuốt lời hứa
Chỉ vài tuần sau, tôi lại thấy những chiếc trực thăng thật đáng ghét khi quay cảnh chuyến bay cuối cùng của người Mỹ rời Sài Gòn. Chúng tôi quyết tâm ở lại xem bộ đội Cộng sản đánh chiếm thành phố thế nào và cuộc chiến tôi đã đưa tin suốt sáu năm trời kết thúc ra sao. Chiếc trực thăng “cẩu” 10 lính thủy quân lục chiến Mỹ khỏi nóc Tòa đại sứ Mỹ. Lúc đó tầng trệt của tòa nhà trông như một pháo đài này bị những kẻ hôi của đốt phá. Ngoài cổng là một đám đông bu kín, kêu gào đòi được di tản.
Từ trên nóc khách sạn, chúng tôi cũng nhìn thấy sân bay Tân Sơn Nhất bị pháo kích dữ dội. Và hình ảnh đáng nhớ nữa là trên nóc các tòa nhà cao tầng trong thành phố lố nhố những người đang chờ đợi trực thăng đến đưa đi trong tuyệt vọng. Họ là những người được các ông chủ là CIA hay các cơ quan quân sự Mỹ khác hứa sẽ đưa đi di tản. Nhưng trong hỗn loạn, lời hứa đã bị nuốt một cách nhẹ nhàng. Trực thăng chẳng bao giờ đến.
Chúng tôi cảm nhận được những thời khắc cuối của cuộc chiến đã đến khi vữa tường tại phòng thu âm của Đài phát thanh Sài Gòn rơi xuống lả tả. Tôi và E-ríc phải tới tận đó để liên lạc với Luân Đôn do không còn đường dây điện thoại nào hoạt động một cách đáng tin cậy. Tòa nhà rung lên, chiếc mi-crô tung lên trần, bay vèo qua đầu tôi. Vài phút sau tôi mới biết, bộ đội Cộng sản vừa dùng máy bay mới thu được oanh tạc Phủ tổng thống ở ngay đầu con đường.
Ba-rôn tường thuật sự kiện chính quyền Sài Gòn tuyên bố đầu hàng ngày 30-4-1975 (Ảnh: BBC)
Chúng tôi nhận được lệnh của ban lãnh đạo BBC là phải di tản khẩn cấp khỏi Sài Gòn. Tuy nhiên, chúng tôi đã kháng lệnh. Là phóng viên, làm sao chúng tôi có thể ngoảnh mặt bỏ đi trước một sự kiện lịch sử có một không hai như vậy?
Chiến thắng thần tốc
Sài Gòn đang sụp đổ. Nhằm thể hiện sự trung lập, chúng tôi cắm cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lên mui ô tô. Biết rằng xe tăng của quân đội Cộng sản sắp tiến vào thành phố. Chúng tôi phi ra cầu Sài Gòn để ghi hình. Tôi ngồi ở băng ghế sau đọc một cuốn sách về nghệ thuật chiến tranh nhân dân của Tướng Võ Nguyên Giáp. Bất chợt, một tiểu đội lính Việt Nam Cộng hòa xuất hiện, dừng xe chúng tôi lại. Viên sĩ quan chỉ huy râu ria xồm xoàm cùng đám lính chĩa súng vào đầu chúng tôi. Tay chỉ huy buộc tội chúng tôi làm gián điệp và bắt chúng tôi phải lái xe chắn ngang cây cầu. Nghe thấy hắn gào lên điên loạn như vậy, tôi vội vàng giấu cuốn sách xuống dưới ghế. Viên sĩ quan này không lâu sau đã chết khi nhảy xuống sông để tìm đường thoát thân.
May mắn không hiểu thế nào, đám lính lại thả chúng tôi. Chúng tôi run run đi bộ trở về trung tâm thành phố. Một tiếng sau chúng tôi chạy thục mạng tới Dinh Độc lập khi xe tăng bộ đội Cộng sản húc đổ cánh cổng dinh. Tôi đã đứng cạnh Tổng thống chế độ Sài Gòn Dương Văn Minh khi ông ta đầu hàng.
Buổi chiều hôm ấy, chúng tôi quay lại cầu Sài Gòn. Chiếc ô tô bị xe tăng bộ đội Cộng sản trong cuộc tiến quân thần tốc cán bẹp lép, không còn ra hình thù gì. Tuy nhiên, lá cờ vẫn còn đó. Nó được cắm bên thành cầu, bay phấp phới.
ĐẶNG NGUYỄN
QĐND Chủ Nhật, 29/04/2007, 10:56 (GMT + 7)
Tháng 4-1975, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam. Sự kiện này cũng đánh dấu thất bại quân sự toàn diện duy nhất trong lịch sử nước Mỹ. Oa-sinh-tơn đã phải bỏ đồng minh để tháo chạy. Phóng viên BBC Brai-ơn Ba-rôn, người trực tiếp đưa tin về cuộc chiến trong sáu năm và chứng kiến chiếc máy bay trực thăng cuối cùng rời Tòa đại sứ Mỹ đã có những kỷ niệm không thể nào quên về những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn...
Cuộc tháo chạy trong sợ hãi
Chưa bao giờ tôi cảm thấy cần một chiếc trực thăng như hồi mùa xuân năm 1975 tại căn cứ không quân Tuy Hòa. Ngoài đường không ra, chẳng có cách nào để tiếp cận điểm “nóng”. Lúc đó, căn cứ này là nơi gần nhất với cuộc triệt thoái quân sự lớn nhất cuối thế kỷ 20. 2000 xe tăng, chiến xa cùng 200 nghìn lính Việt Nam Cộng hòa tán loạn bỏ chạy trước sức mạnh vũ bão của bộ đội Cộng sản. Cuộc tháo chạy này dẫn tới sự sụp đổ nhanh chóng của chính quyền Sài Gòn vài tuần sau đó.
Đánh chiếm Bộ tổng tham mưu ngụy (ảnh tư liệu)
Tôi chạy tới một chiếc Huey đang tiếp nhiên liệu, xin được đi nhờ. Cuối cùng, phi công, một viên thiếu tá đã chán ngấy cuộc chiến, gật đầu ra hiệu cho phép tôi và anh quay phim người Pháp Ê-rích Thai-rơ lên khoang. Vài phút sau, từ độ cao khoảng 300 mét, chúng tôi được chứng kiến đội quân bị bao vây, đang tán loạn trong sợ hãi. Đạn bắn lên từ họng đủ mọi loại súng, từ tiểu liên, trung liên, đại liên tới rốc-két. Chiếc Huey không có cửa sổ, ghế ngồi hay dây an toàn, tất cả được tháo ra để lắp thêm phụ kiện cho cỗ máy giết người. Súng máy từ trên chiếc trực thăng vãi đạn lung tung xuống dưới, chẳng biết trúng vào bên nào.
Nuốt lời hứa
Chỉ vài tuần sau, tôi lại thấy những chiếc trực thăng thật đáng ghét khi quay cảnh chuyến bay cuối cùng của người Mỹ rời Sài Gòn. Chúng tôi quyết tâm ở lại xem bộ đội Cộng sản đánh chiếm thành phố thế nào và cuộc chiến tôi đã đưa tin suốt sáu năm trời kết thúc ra sao. Chiếc trực thăng “cẩu” 10 lính thủy quân lục chiến Mỹ khỏi nóc Tòa đại sứ Mỹ. Lúc đó tầng trệt của tòa nhà trông như một pháo đài này bị những kẻ hôi của đốt phá. Ngoài cổng là một đám đông bu kín, kêu gào đòi được di tản.
Từ trên nóc khách sạn, chúng tôi cũng nhìn thấy sân bay Tân Sơn Nhất bị pháo kích dữ dội. Và hình ảnh đáng nhớ nữa là trên nóc các tòa nhà cao tầng trong thành phố lố nhố những người đang chờ đợi trực thăng đến đưa đi trong tuyệt vọng. Họ là những người được các ông chủ là CIA hay các cơ quan quân sự Mỹ khác hứa sẽ đưa đi di tản. Nhưng trong hỗn loạn, lời hứa đã bị nuốt một cách nhẹ nhàng. Trực thăng chẳng bao giờ đến.
Chúng tôi cảm nhận được những thời khắc cuối của cuộc chiến đã đến khi vữa tường tại phòng thu âm của Đài phát thanh Sài Gòn rơi xuống lả tả. Tôi và E-ríc phải tới tận đó để liên lạc với Luân Đôn do không còn đường dây điện thoại nào hoạt động một cách đáng tin cậy. Tòa nhà rung lên, chiếc mi-crô tung lên trần, bay vèo qua đầu tôi. Vài phút sau tôi mới biết, bộ đội Cộng sản vừa dùng máy bay mới thu được oanh tạc Phủ tổng thống ở ngay đầu con đường.
Tôi chạy tới một chiếc Huey đang tiếp nhiên liệu, xin được đi nhờ. Cuối cùng, phi công, một viên thiếu tá đã chán ngấy cuộc chiến, gật đầu ra hiệu cho phép tôi và anh quay phim người Pháp Ê-rích Thai-rơ lên khoang. Vài phút sau, từ độ cao khoảng 300 mét, chúng tôi được chứng kiến đội quân bị bao vây, đang tán loạn trong sợ hãi. Đạn bắn lên từ họng đủ mọi loại súng, từ tiểu liên, trung liên, đại liên tới rốc-két. Chiếc Huey không có cửa sổ, ghế ngồi hay dây an toàn, tất cả được tháo ra để lắp thêm phụ kiện cho cỗ máy giết người. Súng máy từ trên chiếc trực thăng vãi đạn lung tung xuống dưới, chẳng biết trúng vào bên nào.
Nuốt lời hứa
Chỉ vài tuần sau, tôi lại thấy những chiếc trực thăng thật đáng ghét khi quay cảnh chuyến bay cuối cùng của người Mỹ rời Sài Gòn. Chúng tôi quyết tâm ở lại xem bộ đội Cộng sản đánh chiếm thành phố thế nào và cuộc chiến tôi đã đưa tin suốt sáu năm trời kết thúc ra sao. Chiếc trực thăng “cẩu” 10 lính thủy quân lục chiến Mỹ khỏi nóc Tòa đại sứ Mỹ. Lúc đó tầng trệt của tòa nhà trông như một pháo đài này bị những kẻ hôi của đốt phá. Ngoài cổng là một đám đông bu kín, kêu gào đòi được di tản.
Từ trên nóc khách sạn, chúng tôi cũng nhìn thấy sân bay Tân Sơn Nhất bị pháo kích dữ dội. Và hình ảnh đáng nhớ nữa là trên nóc các tòa nhà cao tầng trong thành phố lố nhố những người đang chờ đợi trực thăng đến đưa đi trong tuyệt vọng. Họ là những người được các ông chủ là CIA hay các cơ quan quân sự Mỹ khác hứa sẽ đưa đi di tản. Nhưng trong hỗn loạn, lời hứa đã bị nuốt một cách nhẹ nhàng. Trực thăng chẳng bao giờ đến.
Chúng tôi cảm nhận được những thời khắc cuối của cuộc chiến đã đến khi vữa tường tại phòng thu âm của Đài phát thanh Sài Gòn rơi xuống lả tả. Tôi và E-ríc phải tới tận đó để liên lạc với Luân Đôn do không còn đường dây điện thoại nào hoạt động một cách đáng tin cậy. Tòa nhà rung lên, chiếc mi-crô tung lên trần, bay vèo qua đầu tôi. Vài phút sau tôi mới biết, bộ đội Cộng sản vừa dùng máy bay mới thu được oanh tạc Phủ tổng thống ở ngay đầu con đường.
Ba-rôn tường thuật sự kiện chính quyền Sài Gòn tuyên bố đầu hàng ngày 30-4-1975 (Ảnh: BBC)
Chúng tôi nhận được lệnh của ban lãnh đạo BBC là phải di tản khẩn cấp khỏi Sài Gòn. Tuy nhiên, chúng tôi đã kháng lệnh. Là phóng viên, làm sao chúng tôi có thể ngoảnh mặt bỏ đi trước một sự kiện lịch sử có một không hai như vậy?
Chiến thắng thần tốc
Sài Gòn đang sụp đổ. Nhằm thể hiện sự trung lập, chúng tôi cắm cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lên mui ô tô. Biết rằng xe tăng của quân đội Cộng sản sắp tiến vào thành phố. Chúng tôi phi ra cầu Sài Gòn để ghi hình. Tôi ngồi ở băng ghế sau đọc một cuốn sách về nghệ thuật chiến tranh nhân dân của Tướng Võ Nguyên Giáp. Bất chợt, một tiểu đội lính Việt Nam Cộng hòa xuất hiện, dừng xe chúng tôi lại. Viên sĩ quan chỉ huy râu ria xồm xoàm cùng đám lính chĩa súng vào đầu chúng tôi. Tay chỉ huy buộc tội chúng tôi làm gián điệp và bắt chúng tôi phải lái xe chắn ngang cây cầu. Nghe thấy hắn gào lên điên loạn như vậy, tôi vội vàng giấu cuốn sách xuống dưới ghế. Viên sĩ quan này không lâu sau đã chết khi nhảy xuống sông để tìm đường thoát thân.
May mắn không hiểu thế nào, đám lính lại thả chúng tôi. Chúng tôi run run đi bộ trở về trung tâm thành phố. Một tiếng sau chúng tôi chạy thục mạng tới Dinh Độc lập khi xe tăng bộ đội Cộng sản húc đổ cánh cổng dinh. Tôi đã đứng cạnh Tổng thống chế độ Sài Gòn Dương Văn Minh khi ông ta đầu hàng.
Buổi chiều hôm ấy, chúng tôi quay lại cầu Sài Gòn. Chiếc ô tô bị xe tăng bộ đội Cộng sản trong cuộc tiến quân thần tốc cán bẹp lép, không còn ra hình thù gì. Tuy nhiên, lá cờ vẫn còn đó. Nó được cắm bên thành cầu, bay phấp phới.
ĐẶNG NGUYỄN
4.22.2008
Cập nhật, Thứ bảy, 09/02/2008, 15:50 GMT+7
Liên tục đạt được những thành công trong nghiên cứu khoa học, ông Võ Đình Tuấn - một Tiến sĩ Vật lý gốc Việt vừa được Công ty tư vấn và kinh doanh toàn cầu Creator Synectics bình chọn là một trong “100 thiên tài đương thời thế giới".
Ngoài cương vị là Viện trưởng Viện Fitzpatrick của Đại học Duke (thuộc Bắc Carolina, Mỹ), ông Tuấn hiện còn là viện sĩ Viện Hóa học, biên tập viên và cố vấn của nhiều tạp chí quốc tế chuyên ngành.
Sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, sau khi tốt nghiệp trung học, ông Tuấn sang Thụy Sĩ du học và lấy bằng cử nhân vật lý năm 1971. Bốn năm sau, ông đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ hóa lý sinh tại Viện Công nghệ Liên bang Zurich và sang định cư tại Mỹ.
Bằng phát minh đầu tiên của ông Tuấn được trao năm 1987 là sáng chế "Băng dán cứu sinh", một loại băng rất nhỏ và dễ sản xuất hàng loạt, dùng để gắn lên áo của công nhân khi họ làm việc trong những môi trường có nguy cơ cao, nhằm ghi lại các thông số của loại chất độc hại mà họ bị mắc phải trong quá trình lao động.
Lĩnh vực y khoa thế giới đã ghi nhận nhiều phát minh của ông về những hệ thống chẩn đoán sử dụng việc khám phá các ADN gây bệnh tiểu đường và ung thư. Tất cả các hệ thống này đều dựa trên phương pháp "tia sáng đồng hành" dễ ứng dụng. Phương pháp này của ông đã được các công ty dược và tổ chức môi trường Hoa Kỳ chấp nhận.
Năm 2003, ông còn là một trong bốn nhà khoa học Mỹ gốc Á được Cơ quan Thương hiệu và phát minh Hoa Kỳ (USPTO) tôn vinh. Theo đánh giá của USPTO, những phát minh của tiến sĩ Võ Đình Tuấn đã góp phần làm cho Mỹ trở thành một trong những nước có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất trên thế giới.
Sau gần 30 năm hoạt động khoa học, đến nay ông Võ Đình Tuấn đã có hơn 30 bằng phát minh và sáng chế đang được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực môi trường, sinh học và y học. Ngoài ra, ông Tuấn còn đoạt 5 giải thưởng Nghiên cứu và Phát triển vào các năm 1981, 1987, 1992, 1994 và 1996, đồng thời là tác giả của hơn 300 công trình được in ấn trên các tạp chí khoa học.
“Những nghiên cứu của tôi chỉ có mục đích đơn giản là góp phần làm giảm những nỗi đau của con người và cái khó nhất đối với bệnh nan y như ung thư hay AIDS chính là phát hiện ra nó”, ông Tuấn khiêm nhường nói.
Nhà khoa học tài năng này hiện đang tiếp tục theo đuổi mục đích cải tiến công nghệ sản xuất thiết bị y khoa hiện đại, có kích thước nhỏ và giá thành thấp nhằm góp phần nâng cao tính hiệu quả và tiết kiệm chi phí trong chẩn đoán và điều trị bệnh.
Hiện nay, có khoảng 3,5 triệu Việt kiều đang sinh sống tại 94 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Nhiều người trong số họ đã rất thành đạt, có vị trí và những đóng góp đáng kể tại các nước sở tại./.
TTXVN
Liên tục đạt được những thành công trong nghiên cứu khoa học, ông Võ Đình Tuấn - một Tiến sĩ Vật lý gốc Việt vừa được Công ty tư vấn và kinh doanh toàn cầu Creator Synectics bình chọn là một trong “100 thiên tài đương thời thế giới".
Ngoài cương vị là Viện trưởng Viện Fitzpatrick của Đại học Duke (thuộc Bắc Carolina, Mỹ), ông Tuấn hiện còn là viện sĩ Viện Hóa học, biên tập viên và cố vấn của nhiều tạp chí quốc tế chuyên ngành.
Sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, sau khi tốt nghiệp trung học, ông Tuấn sang Thụy Sĩ du học và lấy bằng cử nhân vật lý năm 1971. Bốn năm sau, ông đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ hóa lý sinh tại Viện Công nghệ Liên bang Zurich và sang định cư tại Mỹ.
Bằng phát minh đầu tiên của ông Tuấn được trao năm 1987 là sáng chế "Băng dán cứu sinh", một loại băng rất nhỏ và dễ sản xuất hàng loạt, dùng để gắn lên áo của công nhân khi họ làm việc trong những môi trường có nguy cơ cao, nhằm ghi lại các thông số của loại chất độc hại mà họ bị mắc phải trong quá trình lao động.
Lĩnh vực y khoa thế giới đã ghi nhận nhiều phát minh của ông về những hệ thống chẩn đoán sử dụng việc khám phá các ADN gây bệnh tiểu đường và ung thư. Tất cả các hệ thống này đều dựa trên phương pháp "tia sáng đồng hành" dễ ứng dụng. Phương pháp này của ông đã được các công ty dược và tổ chức môi trường Hoa Kỳ chấp nhận.
Năm 2003, ông còn là một trong bốn nhà khoa học Mỹ gốc Á được Cơ quan Thương hiệu và phát minh Hoa Kỳ (USPTO) tôn vinh. Theo đánh giá của USPTO, những phát minh của tiến sĩ Võ Đình Tuấn đã góp phần làm cho Mỹ trở thành một trong những nước có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất trên thế giới.
Sau gần 30 năm hoạt động khoa học, đến nay ông Võ Đình Tuấn đã có hơn 30 bằng phát minh và sáng chế đang được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực môi trường, sinh học và y học. Ngoài ra, ông Tuấn còn đoạt 5 giải thưởng Nghiên cứu và Phát triển vào các năm 1981, 1987, 1992, 1994 và 1996, đồng thời là tác giả của hơn 300 công trình được in ấn trên các tạp chí khoa học.
“Những nghiên cứu của tôi chỉ có mục đích đơn giản là góp phần làm giảm những nỗi đau của con người và cái khó nhất đối với bệnh nan y như ung thư hay AIDS chính là phát hiện ra nó”, ông Tuấn khiêm nhường nói.
Nhà khoa học tài năng này hiện đang tiếp tục theo đuổi mục đích cải tiến công nghệ sản xuất thiết bị y khoa hiện đại, có kích thước nhỏ và giá thành thấp nhằm góp phần nâng cao tính hiệu quả và tiết kiệm chi phí trong chẩn đoán và điều trị bệnh.
Hiện nay, có khoảng 3,5 triệu Việt kiều đang sinh sống tại 94 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Nhiều người trong số họ đã rất thành đạt, có vị trí và những đóng góp đáng kể tại các nước sở tại./.
TTXVN
Việt kiều Võ Đình Tuấn được bầu chọn là một trong "100 thiên tài đương thời thế giới"
Cập nhật, Thứ bảy, 09/02/2008, 15:50 GMT+7
Liên tục đạt được những thành công trong nghiên cứu khoa học, ông Võ Đình Tuấn - một Tiến sĩ Vật lý gốc Việt vừa được Công ty tư vấn và kinh doanh toàn cầu Creator Synectics bình chọn là một trong “100 thiên tài đương thời thế giới".
Ngoài cương vị là Viện trưởng Viện Fitzpatrick của Đại học Duke (thuộc Bắc Carolina, Mỹ), ông Tuấn hiện còn là viện sĩ Viện Hóa học, biên tập viên và cố vấn của nhiều tạp chí quốc tế chuyên ngành.
Sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, sau khi tốt nghiệp trung học, ông Tuấn sang Thụy Sĩ du học và lấy bằng cử nhân vật lý năm 1971. Bốn năm sau, ông đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ hóa lý sinh tại Viện Công nghệ Liên bang Zurich và sang định cư tại Mỹ.
Bằng phát minh đầu tiên của ông Tuấn được trao năm 1987 là sáng chế "Băng dán cứu sinh", một loại băng rất nhỏ và dễ sản xuất hàng loạt, dùng để gắn lên áo của công nhân khi họ làm việc trong những môi trường có nguy cơ cao, nhằm ghi lại các thông số của loại chất độc hại mà họ bị mắc phải trong quá trình lao động.
Lĩnh vực y khoa thế giới đã ghi nhận nhiều phát minh của ông về những hệ thống chẩn đoán sử dụng việc khám phá các ADN gây bệnh tiểu đường và ung thư. Tất cả các hệ thống này đều dựa trên phương pháp "tia sáng đồng hành" dễ ứng dụng. Phương pháp này của ông đã được các công ty dược và tổ chức môi trường Hoa Kỳ chấp nhận.
Năm 2003, ông còn là một trong bốn nhà khoa học Mỹ gốc Á được Cơ quan Thương hiệu và phát minh Hoa Kỳ (USPTO) tôn vinh. Theo đánh giá của USPTO, những phát minh của tiến sĩ Võ Đình Tuấn đã góp phần làm cho Mỹ trở thành một trong những nước có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất trên thế giới.
Sau gần 30 năm hoạt động khoa học, đến nay ông Võ Đình Tuấn đã có hơn 30 bằng phát minh và sáng chế đang được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực môi trường, sinh học và y học. Ngoài ra, ông Tuấn còn đoạt 5 giải thưởng Nghiên cứu và Phát triển vào các năm 1981, 1987, 1992, 1994 và 1996, đồng thời là tác giả của hơn 300 công trình được in ấn trên các tạp chí khoa học.
“Những nghiên cứu của tôi chỉ có mục đích đơn giản là góp phần làm giảm những nỗi đau của con người và cái khó nhất đối với bệnh nan y như ung thư hay AIDS chính là phát hiện ra nó”, ông Tuấn khiêm nhường nói.
Nhà khoa học tài năng này hiện đang tiếp tục theo đuổi mục đích cải tiến công nghệ sản xuất thiết bị y khoa hiện đại, có kích thước nhỏ và giá thành thấp nhằm góp phần nâng cao tính hiệu quả và tiết kiệm chi phí trong chẩn đoán và điều trị bệnh.
Hiện nay, có khoảng 3,5 triệu Việt kiều đang sinh sống tại 94 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Nhiều người trong số họ đã rất thành đạt, có vị trí và những đóng góp đáng kể tại các nước sở tại./.
TTXVN
Liên tục đạt được những thành công trong nghiên cứu khoa học, ông Võ Đình Tuấn - một Tiến sĩ Vật lý gốc Việt vừa được Công ty tư vấn và kinh doanh toàn cầu Creator Synectics bình chọn là một trong “100 thiên tài đương thời thế giới".
Ngoài cương vị là Viện trưởng Viện Fitzpatrick của Đại học Duke (thuộc Bắc Carolina, Mỹ), ông Tuấn hiện còn là viện sĩ Viện Hóa học, biên tập viên và cố vấn của nhiều tạp chí quốc tế chuyên ngành.
Sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, sau khi tốt nghiệp trung học, ông Tuấn sang Thụy Sĩ du học và lấy bằng cử nhân vật lý năm 1971. Bốn năm sau, ông đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ hóa lý sinh tại Viện Công nghệ Liên bang Zurich và sang định cư tại Mỹ.
Bằng phát minh đầu tiên của ông Tuấn được trao năm 1987 là sáng chế "Băng dán cứu sinh", một loại băng rất nhỏ và dễ sản xuất hàng loạt, dùng để gắn lên áo của công nhân khi họ làm việc trong những môi trường có nguy cơ cao, nhằm ghi lại các thông số của loại chất độc hại mà họ bị mắc phải trong quá trình lao động.
Lĩnh vực y khoa thế giới đã ghi nhận nhiều phát minh của ông về những hệ thống chẩn đoán sử dụng việc khám phá các ADN gây bệnh tiểu đường và ung thư. Tất cả các hệ thống này đều dựa trên phương pháp "tia sáng đồng hành" dễ ứng dụng. Phương pháp này của ông đã được các công ty dược và tổ chức môi trường Hoa Kỳ chấp nhận.
Năm 2003, ông còn là một trong bốn nhà khoa học Mỹ gốc Á được Cơ quan Thương hiệu và phát minh Hoa Kỳ (USPTO) tôn vinh. Theo đánh giá của USPTO, những phát minh của tiến sĩ Võ Đình Tuấn đã góp phần làm cho Mỹ trở thành một trong những nước có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất trên thế giới.
Sau gần 30 năm hoạt động khoa học, đến nay ông Võ Đình Tuấn đã có hơn 30 bằng phát minh và sáng chế đang được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực môi trường, sinh học và y học. Ngoài ra, ông Tuấn còn đoạt 5 giải thưởng Nghiên cứu và Phát triển vào các năm 1981, 1987, 1992, 1994 và 1996, đồng thời là tác giả của hơn 300 công trình được in ấn trên các tạp chí khoa học.
“Những nghiên cứu của tôi chỉ có mục đích đơn giản là góp phần làm giảm những nỗi đau của con người và cái khó nhất đối với bệnh nan y như ung thư hay AIDS chính là phát hiện ra nó”, ông Tuấn khiêm nhường nói.
Nhà khoa học tài năng này hiện đang tiếp tục theo đuổi mục đích cải tiến công nghệ sản xuất thiết bị y khoa hiện đại, có kích thước nhỏ và giá thành thấp nhằm góp phần nâng cao tính hiệu quả và tiết kiệm chi phí trong chẩn đoán và điều trị bệnh.
Hiện nay, có khoảng 3,5 triệu Việt kiều đang sinh sống tại 94 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Nhiều người trong số họ đã rất thành đạt, có vị trí và những đóng góp đáng kể tại các nước sở tại./.
TTXVN
4.01.2008
3 giải pháp “cứu” môn Lịch sử
Dân trí điện tử Thứ Ba, 01/04/2008 - 5:03 PM
(Dân trí) - Xem thường việc nghiên cứu và giáo dục lịch sử cho thế hệ trẻ chắc chắn là một sai lầm nghiêm trọng, mà tai họa của nó sẽ không sao lường hết được! Việc dạy và học sử ở nước ta đang có những vấn đề rất nan giải, đáng báo động.
Vì thế, gần 30 nhà sử học, các nhà giáo lão thành, lãnh đạo các trường đại học và các thày, cô giáo dạy sử cấp phổ thông đã cùng ngồi lại bàn bạc về vấn đề này trong Hội thảo "Thực trạng việc dạy và học môn lịch sử trong trường phổ thông - Nguyên nhân và Giải pháp" do hội Khoa học Lịch Sử Việt Nam vừa tổ chức.
Dưới đây là tổng hợp của Dân trí về 3 giải pháp "cứu" môn Lịch sử được căn cứ trên những ý kiến từ cuộc Hội thảo khoa học này. Bản kiến nghị chính thức về các giải pháp cho môn Lịch sử do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam thực hiện gửi Bộ GD- ĐT dự kiến sẽ được hoàn thành vào cuối tháng 4 tới.
Phải lấy lại công bằng cho môn Lịch sử!
Phải có sự thay đổi mang tính cách mạng về quan niệm đối với môn Lịch sử ở bậc phổ thông được các ý kiến thống nhất là giải pháp hàng đầu. Phải có quan niệm đúng về bộ môn Lịch sử từ các cấp quản lý giáo dục đến cha mẹ học sinh và toàn xã hội. Không có quan niệm đúng về môn học thì tất cả những đề xuất về đổi mới nội dung, phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn đều không thể thực hiện được.
Trên thế giới, các nước đều coi môn Lịch sử là một trong những môn học cơ bản trong chương trình giáo dục phổ thông. Nước ta trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, môn Lịch sử, trước hết là môn quốc sử, càng giữ vai trò quan trọng trong trang bị kiến thức cơ sở, giáo dục các giá trị truyền thống, góp phần xác lập bản lĩnh con người để thế hệ trẻ cùng với nền tảng giáo dục phổ thông, có thể bước vào đời, thực hiện trách nhiệm công dân đối với xã hội.
Nhưng, sau bậc học phổ thông, chỉ có một số ít học sinh đi các các ngành của khoa học lịch sử, còn đại bộ phận đi vào các ngành khoa học khác mà không còn tiếp tục học môn lịch sử. Vì vậy đối với thế hệ trẻ, kiến thức lịch sử chỉ được trang bị chủ yếu qua môn sử cấp phổ thông, cộng với những hiểu biết được bổ sung qua đọc sách báo hay tự học.
Nếu không sớm cải cách môn Lịch sử ở cấp học phổ thông, khắc phục tình trạng sa sút đến mức báo động như hiện nay thì sẽ tạo ra những hẫng hụt trong kiến thức về lịch sử Việt Nam và thế giới, để lại những hệ quả rất đáng lo ngại trong kế thừa các giá trị di sản lịch sử và văn hóa dân tộc, trong gìn giữ bản sắc dân tộc, trong định hướng phát triển nhân cách, bản lĩnh con người Việt Nam nhất là khi giao lưu và đối thoại với các nền văn minh, văn hóa thế giới.
Nên có hai bộ sách giáo khoa Lịch sử
Hiện tại cũng có nhiều loại sách học lịch sử cho học sinh (sách chuyên ban, sách đại trà, sách nâng cao, sách tham khảo, sách bài tập, sách ôn luyện…), trong đó sách giáo khoa chuẩn vẫn là sách cho đại trà (đại bộ phận học sinh toàn quốc). Bộ sách chuẩn này nên chia làm 2 bộ: một bộ chuẩn kiến thức môn lịch sử và một bộ giáo khoa tham khảo.
Bộ chuẩn kiến thức thật tinh gọn và bộ giáo khoa tham khảo thật đầy đủ. Đây là hai bộ song hành nhưng không phải bộ này là tóm tắt của bộ kia hay bộ này hoàn thiện bộ kia.
Nội dung bộ chuẩn kiến thức ở cấp 1 chỉ nên là những bài học lịch sử về các nhân vật lịch sử; còn bộ giáo khoa tham khảo ở cấp này là những mẩu chuyện hay chuyện kể lịch sử, xây dựng lịch sử thành truyền thuyết (truyền thuyết hóa, thần thoại hóa lịch sử)
Nội dung bộ chuẩn kiến thức ở cấp 2 là những sự kiện lịch sử; bộ giáo khoa tham khảo ở cấp 2 cũng xoay quanh các mô tả về sự kiện lịch sử, nên viết dưới dạng tư liệu lịch sử hay sử ký.
Nội dung bộ chuẩn kiến thức cấp 3 là những vấn đề lịch sử (gồm cả nội dung và ý nghĩa, bản chất sự vật sự việc và nhận định đánh giá); còn bộ sách giáo khoa tham khảo cấp 3 viết như bộ giáo khoa đã có, nhưng nên thể hiện nhiều chiều, nhiều phía, chứ không nên một chiều như hiện nay.
Cần chọn lựa tác giả là những người giỏi về chuyên môn, nhiều kinh nghiệm sư phạm. Cần một đội ngũ phản biện, góp ý kiến có trình độ khoa học, có kinh nghiệm sư phạm và có nhiệt tâm với tinh thần trách nhiệm cao. Bên cạnh các nhà sử đầu ngành rất cần có sự góp ý của giáo viên giỏi ở THPT, họ là những người gần gũi học sinh có thể nhận biết khả năng tiếp thu của học sinh đối với từng trang sách, có thể góp nhiều ý kiến xác đáng phù hợp với thực tiễn giảng dạy trong nhà trường. Hội đồng thẩm định nhất thiết phải có thầy cô giáo phổ thông.
Đào tạo lại đội ngũ giáo viên dạy Sử
Đồng thời với việc khôi phục vị trí môn sử trong trường phổ thông, ngành giáo dục phải tập trung đào tạo và đào tạo lại đội ngũ giáo viên dạy sử trong toàn quốc và xem đây như là một trong những việc lớn của chiến lược giáo dục Việt Nam cho đến năm 2020.
Phải kiên quyết lấy điểm chuẩn tuyển sinh cao, không chạy theo số lượng nhằm chọn lọc được những sinh viên ưu tú và say mê sử học, đặc biệt chú ý đến hệ cử nhân tài năng trong ngành sử. Phải có một chương trình dài hạn nhằm không ngừng bổ sung kiến thức và phương pháp giảng dạy lịch sử cho đội ngũ giáo viên phổ thông.
Mỗi năm vào mùa hè ngành giáo dục nên tổ chức nhiều lọai hình học tập linh họat, hiệu quả nhằm nâng dần chất lượng và lòng yêu nghề của đội ngũ giáo viên môn sử. Phải hết sức chú ý khuyến khích giáo viên dạy sử ở phổ thông tiếp tục học sau đại học, đạt được trình độ thạc sĩ, tiến sĩ Lịch sử.
Hội khoa học Lịch sử ở trung ương và các tỉnh, thành phố nên chú ý lôi cuốn đội ngũ giáo viên dạy sử gia nhập hội và có nhiều phong trào giúp họ nâng cao trình độ học thuật và phương pháp giảng dạy lịch sử.
Mai Minh (tổng hợp)
(Dân trí) - Xem thường việc nghiên cứu và giáo dục lịch sử cho thế hệ trẻ chắc chắn là một sai lầm nghiêm trọng, mà tai họa của nó sẽ không sao lường hết được! Việc dạy và học sử ở nước ta đang có những vấn đề rất nan giải, đáng báo động.
Vì thế, gần 30 nhà sử học, các nhà giáo lão thành, lãnh đạo các trường đại học và các thày, cô giáo dạy sử cấp phổ thông đã cùng ngồi lại bàn bạc về vấn đề này trong Hội thảo "Thực trạng việc dạy và học môn lịch sử trong trường phổ thông - Nguyên nhân và Giải pháp" do hội Khoa học Lịch Sử Việt Nam vừa tổ chức.
Dưới đây là tổng hợp của Dân trí về 3 giải pháp "cứu" môn Lịch sử được căn cứ trên những ý kiến từ cuộc Hội thảo khoa học này. Bản kiến nghị chính thức về các giải pháp cho môn Lịch sử do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam thực hiện gửi Bộ GD- ĐT dự kiến sẽ được hoàn thành vào cuối tháng 4 tới.
Phải lấy lại công bằng cho môn Lịch sử!
Phải có sự thay đổi mang tính cách mạng về quan niệm đối với môn Lịch sử ở bậc phổ thông được các ý kiến thống nhất là giải pháp hàng đầu. Phải có quan niệm đúng về bộ môn Lịch sử từ các cấp quản lý giáo dục đến cha mẹ học sinh và toàn xã hội. Không có quan niệm đúng về môn học thì tất cả những đề xuất về đổi mới nội dung, phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn đều không thể thực hiện được.
Trên thế giới, các nước đều coi môn Lịch sử là một trong những môn học cơ bản trong chương trình giáo dục phổ thông. Nước ta trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, môn Lịch sử, trước hết là môn quốc sử, càng giữ vai trò quan trọng trong trang bị kiến thức cơ sở, giáo dục các giá trị truyền thống, góp phần xác lập bản lĩnh con người để thế hệ trẻ cùng với nền tảng giáo dục phổ thông, có thể bước vào đời, thực hiện trách nhiệm công dân đối với xã hội.
Nhưng, sau bậc học phổ thông, chỉ có một số ít học sinh đi các các ngành của khoa học lịch sử, còn đại bộ phận đi vào các ngành khoa học khác mà không còn tiếp tục học môn lịch sử. Vì vậy đối với thế hệ trẻ, kiến thức lịch sử chỉ được trang bị chủ yếu qua môn sử cấp phổ thông, cộng với những hiểu biết được bổ sung qua đọc sách báo hay tự học.
Nếu không sớm cải cách môn Lịch sử ở cấp học phổ thông, khắc phục tình trạng sa sút đến mức báo động như hiện nay thì sẽ tạo ra những hẫng hụt trong kiến thức về lịch sử Việt Nam và thế giới, để lại những hệ quả rất đáng lo ngại trong kế thừa các giá trị di sản lịch sử và văn hóa dân tộc, trong gìn giữ bản sắc dân tộc, trong định hướng phát triển nhân cách, bản lĩnh con người Việt Nam nhất là khi giao lưu và đối thoại với các nền văn minh, văn hóa thế giới.
Nên có hai bộ sách giáo khoa Lịch sử
Hiện tại cũng có nhiều loại sách học lịch sử cho học sinh (sách chuyên ban, sách đại trà, sách nâng cao, sách tham khảo, sách bài tập, sách ôn luyện…), trong đó sách giáo khoa chuẩn vẫn là sách cho đại trà (đại bộ phận học sinh toàn quốc). Bộ sách chuẩn này nên chia làm 2 bộ: một bộ chuẩn kiến thức môn lịch sử và một bộ giáo khoa tham khảo.
Bộ chuẩn kiến thức thật tinh gọn và bộ giáo khoa tham khảo thật đầy đủ. Đây là hai bộ song hành nhưng không phải bộ này là tóm tắt của bộ kia hay bộ này hoàn thiện bộ kia.
Nội dung bộ chuẩn kiến thức ở cấp 1 chỉ nên là những bài học lịch sử về các nhân vật lịch sử; còn bộ giáo khoa tham khảo ở cấp này là những mẩu chuyện hay chuyện kể lịch sử, xây dựng lịch sử thành truyền thuyết (truyền thuyết hóa, thần thoại hóa lịch sử)
Nội dung bộ chuẩn kiến thức ở cấp 2 là những sự kiện lịch sử; bộ giáo khoa tham khảo ở cấp 2 cũng xoay quanh các mô tả về sự kiện lịch sử, nên viết dưới dạng tư liệu lịch sử hay sử ký.
Nội dung bộ chuẩn kiến thức cấp 3 là những vấn đề lịch sử (gồm cả nội dung và ý nghĩa, bản chất sự vật sự việc và nhận định đánh giá); còn bộ sách giáo khoa tham khảo cấp 3 viết như bộ giáo khoa đã có, nhưng nên thể hiện nhiều chiều, nhiều phía, chứ không nên một chiều như hiện nay.
Cần chọn lựa tác giả là những người giỏi về chuyên môn, nhiều kinh nghiệm sư phạm. Cần một đội ngũ phản biện, góp ý kiến có trình độ khoa học, có kinh nghiệm sư phạm và có nhiệt tâm với tinh thần trách nhiệm cao. Bên cạnh các nhà sử đầu ngành rất cần có sự góp ý của giáo viên giỏi ở THPT, họ là những người gần gũi học sinh có thể nhận biết khả năng tiếp thu của học sinh đối với từng trang sách, có thể góp nhiều ý kiến xác đáng phù hợp với thực tiễn giảng dạy trong nhà trường. Hội đồng thẩm định nhất thiết phải có thầy cô giáo phổ thông.
Đào tạo lại đội ngũ giáo viên dạy Sử
Đồng thời với việc khôi phục vị trí môn sử trong trường phổ thông, ngành giáo dục phải tập trung đào tạo và đào tạo lại đội ngũ giáo viên dạy sử trong toàn quốc và xem đây như là một trong những việc lớn của chiến lược giáo dục Việt Nam cho đến năm 2020.
Phải kiên quyết lấy điểm chuẩn tuyển sinh cao, không chạy theo số lượng nhằm chọn lọc được những sinh viên ưu tú và say mê sử học, đặc biệt chú ý đến hệ cử nhân tài năng trong ngành sử. Phải có một chương trình dài hạn nhằm không ngừng bổ sung kiến thức và phương pháp giảng dạy lịch sử cho đội ngũ giáo viên phổ thông.
Mỗi năm vào mùa hè ngành giáo dục nên tổ chức nhiều lọai hình học tập linh họat, hiệu quả nhằm nâng dần chất lượng và lòng yêu nghề của đội ngũ giáo viên môn sử. Phải hết sức chú ý khuyến khích giáo viên dạy sử ở phổ thông tiếp tục học sau đại học, đạt được trình độ thạc sĩ, tiến sĩ Lịch sử.
Hội khoa học Lịch sử ở trung ương và các tỉnh, thành phố nên chú ý lôi cuốn đội ngũ giáo viên dạy sử gia nhập hội và có nhiều phong trào giúp họ nâng cao trình độ học thuật và phương pháp giảng dạy lịch sử.
Mai Minh (tổng hợp)
3.31.2008
Sách áp đặt, thầy dạy nhàm, trò chán!
29/03/2008
Đó là những nội dung chính được đề cập tại hội thảo khoa học về "Thực trạng việc dạy và học lịch sử trong trường phổ thông - nguyên nhân và giải pháp" do Hội Khoa học lịch sử, Bộ GD-ĐT, Bảo tàng Cách mạng VN, Trường ĐH Khoa học xã hội & nhân văn (ĐHQG TP.HCM), ĐH Hồng Bàng phối hợp tổ chức ngày 27-3.
Chưa có thay đổi nào đáng kể trong vấn đề dạy học môn lịch sử. Cùng với đó là kết quả thi môn lịch sử trong các kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng tụt xuống thấp. Học sinh chán học sử và môn sử từ rất lâu trở thành "môn học phụ”...
Image
Một tiết học môn sử của lớp 12A7 Trường THPT Lương Thế Vinh, Q.1, TP.HCM (chiều 27-3, ảnh chỉ có tính chất minh họa)
GS Phan Huy Lê - chủ tịch Hội Khoa học lịch sử VN - cho biết những vấn đề đề cập tại hội thảo đã được bàn từ những năm 1990 nhưng không đi đến kết quả. Trong việc làm gì để cải thiện tình hình trên, trách nhiệm của Bộ GD-ĐT rất lớn.
Quan điểm coi nhẹ môn lịch sử được nhiều nhà sử học, các giáo viên phổ thông, đại học nhắc đến nhiều như nguyên do số 1 dẫn đến thực trạng học sinh chán học, đạt điểm kém môn lịch sử.
Gợi lòng yêu nước
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gửi thư tới hội thảo, trong thư nhấn mạnh: "Môn lịch sử giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong giáo dục chủ nghĩa yêu nước, các giá trị truyền thống và cách mạng, góp phần xây dựng nhân cách, bản lĩnh con người, giữ gìn bản sắc dân tộc. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, môn lịch sử, nhất là quốc sử, càng cần coi trọng để chuẩn bị cho thế hệ trẻ làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ người công dân".
Phu nhân đại tướng Võ Nguyên Giáp là GS sử học Đặng Bích Hà cũng trực tiếp tham dự hội thảo.
TTXVN
Theo PGS Vũ Dương Ninh, PGS Vũ Quang Hiểu (ĐHQG Hà Nội), thời lượng 1,5-2 tiết lịch sử/tuần ở bậc phổ thông không phải là ít. Nhưng như ông Vũ Dương Ninh phát biểu: việc coi nhẹ môn sử thể hiệ n ở chỉ đạo của các trường, sở trong việc cắt xén giờ học môn lịch sử và một số môn học khác, học dồn giờ để tập trung thời gian chuyên sâu các môn "quan trọng hơn". Nó cũng thể hiện ở chỗ có năm thi tốt nghiệp THPT môn sử, có năm không. Môn sử còn được xếp vào môn thi thay thế cho học sinh không được học ngoại ngữ.
PGS Vũ Quang Hiểu kể: "Một năm tiếp xúc với không dưới 100 học sinh phổ thông, hầu hết trong số này khi được hỏi đều trả lời: không có thời gian để học sử, thường chỉ giở sách xem lại bài vào trước buổi học có môn sử. Đây là tình trạng phổ biến ở nhiều học sinh".
Áp đặt quan điểm
Nguyên nhân nữa là sự bất ổn ở chính chương trình, sách giáo khoa. Theo TS Hà Minh Hồng - trưởng khoa lịch sử ĐH Khoa học xã hội & nhân văn, thời lượng dành cho môn lịch sử là vừa nhưng nội dung ôm đồm, nặng nề và quá khô khan, thậm chí quá sức đối với học sinh. Sách giáo khoa lịch sử nhưng nặng về tính chính trị hơn là tính trung thực, khách quan của lịch sử.
Bà Hà Thị Nga, chuyên viên Sở GD-ĐT Hải Phòng, cho rằng: nội dung sách giáo khoa nặng về quan điểm áp đặt đối với học sinh. Tài liệu tham khảo lịch sử nhiều nhưng trùng lặp nội dung kiến thức, không thống nhất số liệu, khó khăn cho cả giáo viên và học sinh. Cách diễn đạt phức tạp, khó hiểu với học sinh phổ thông.
Image
Biểu đồ kết quả thi môn lịch sử (khối C) kỳ thi ĐH, CĐ 2007
Nguyên nhân từ phía giáo viên, phương pháp giảng dạy, môi trường học sử cũng được đề cập. Quan niệm về "môn phụ” chi phối rất nhiều đến nhiệt tình giảng dạy của giáo viên dạy sử. Nhận xét của GS Đỗ Thanh Bình - chủ nhiệm khoa lịch sử ĐH Sư phạm Hà Nội - về thực trạng giáo viên môn sử: "Bất cập cả về trình độ và nghiệp vụ sư phạm.
Lối dạy học "như sách", nhàm chán là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc học sinh chán học, việc nghe giảng rồi chữ thầy trả thầy. Đời sống khó khăn của giáo viên dạy môn phụ, yêu cầu dễ dãi trong quản lý chuyên môn càng khiến giáo viên sử không thể tự nâng tầm cho mình".
Môi trường học sử nghèo nàn cũng là một cản trở trong việc lôi cuốn học sinh yêu môn sử.
Không đứng ngoài cuộc
"Dạy sử là dạy cho học sinh biết về nền tảng văn hóa dân tộc, nền tảng văn hóa nhân loại, dạy để học sinh làm người" - nếu nhìn theo cách này thì môn sử quá quan trọng. Theo PGS Võ Văn Sen - hiệu trưởng ĐH Khoa học xã hội & nhân văn TP.HCM: "Nên đưa môn sử vào diện môn thi bắt buộc. Chỉ có như thế thì quan niệm coi thường môn sử mới có thể thay đổi". PGS Đỗ Bang - ĐH Khoa học Huế - nói: "Chúng ta nên làm theo một số nước khác, ngay cả việc thi tuyển công chức, tuyển dụng lao động, công nhận chuyên viên cao cấp... cũng yêu cầu sát hạch về kiến thức lịch sử...".
GS Phan Huy Lê khẳng định Hội Khoa học lịch sử VN sẽ không đứng ngoài cuộc. Hôm nay, BCH hội đã họp bàn để phản ánh hiệu quả nhất các vấn đề đã đặt ra tại hội thảo. Hội sẽ nhận trách nhiệm thẩm định, phản biện và góp ý cho việc rà soát lại chương trình - sách giáo khoa để hướng đến việc bổ sung, lược bớt những phần không cần thiết, đổi mới phương pháp dạy học sử...
Mấy người dạy sử bằng trái tim
Bà Lê Thị Hiền - Sở GD-ĐT Thanh Hóa - cho rằng không thể né tránh nguyên nhân khiến việc dạy học sử sa sút là do trình độ giáo viên. Trong khi phụ huynh và học sinh không mặn mà với môn sử, giáo viên chính là người phải vượt lên mặc cảm về "giáo viên môn phụ” để tạo cho học sinh sự hứng thú khi học môn học này.
Sở GD-ĐT Thanh Hóa khi tổ chức chuyên đề về thay sách giáo khoa đã quan tâm đến việc nâng chất lượng giảng dạy môn lịch sử. Nhiều giáo viên đã tự sưu tầm tài liệu lịch sử, băng hình, tư liệu văn học liên quan đến lịch sử, tranh ảnh, câu chuyện lịch sử... để sử dụng trong giờ dạy sử. Một số giáo viên đã thiết kế bài giảng điện tử, tổ chức các trò chơi, hoạt động ngoại khóa cho học sinh tìm hiểu lịch sử từ thực tế...
Để làm được những việc này, người giáo viên không chỉ thực hiện trách nhiệm theo kiểu "làm công ăn lương" mà phải tận tâm với học sinh, yêu nghề, có một trái tim. Nhưng tiếc thay, những người thầy dạy sử bằng trái tim lại không có nhiều!
GS Đinh Xuân Lâm phát biểu: không chỉ đào tạo giáo viên để dạy kiến thức lịch sử mà còn cần bồi dưỡng để chính giáo viên cũng say mê với sử thì mới có thể dạy tốt.
Trịnh Vĩnh Hà - Tuổi Trẻ oline
Đó là những nội dung chính được đề cập tại hội thảo khoa học về "Thực trạng việc dạy và học lịch sử trong trường phổ thông - nguyên nhân và giải pháp" do Hội Khoa học lịch sử, Bộ GD-ĐT, Bảo tàng Cách mạng VN, Trường ĐH Khoa học xã hội & nhân văn (ĐHQG TP.HCM), ĐH Hồng Bàng phối hợp tổ chức ngày 27-3.
Chưa có thay đổi nào đáng kể trong vấn đề dạy học môn lịch sử. Cùng với đó là kết quả thi môn lịch sử trong các kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng tụt xuống thấp. Học sinh chán học sử và môn sử từ rất lâu trở thành "môn học phụ”...
Image
Một tiết học môn sử của lớp 12A7 Trường THPT Lương Thế Vinh, Q.1, TP.HCM (chiều 27-3, ảnh chỉ có tính chất minh họa)
GS Phan Huy Lê - chủ tịch Hội Khoa học lịch sử VN - cho biết những vấn đề đề cập tại hội thảo đã được bàn từ những năm 1990 nhưng không đi đến kết quả. Trong việc làm gì để cải thiện tình hình trên, trách nhiệm của Bộ GD-ĐT rất lớn.
Quan điểm coi nhẹ môn lịch sử được nhiều nhà sử học, các giáo viên phổ thông, đại học nhắc đến nhiều như nguyên do số 1 dẫn đến thực trạng học sinh chán học, đạt điểm kém môn lịch sử.
Gợi lòng yêu nước
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gửi thư tới hội thảo, trong thư nhấn mạnh: "Môn lịch sử giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong giáo dục chủ nghĩa yêu nước, các giá trị truyền thống và cách mạng, góp phần xây dựng nhân cách, bản lĩnh con người, giữ gìn bản sắc dân tộc. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, môn lịch sử, nhất là quốc sử, càng cần coi trọng để chuẩn bị cho thế hệ trẻ làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ người công dân".
Phu nhân đại tướng Võ Nguyên Giáp là GS sử học Đặng Bích Hà cũng trực tiếp tham dự hội thảo.
TTXVN
Theo PGS Vũ Dương Ninh, PGS Vũ Quang Hiểu (ĐHQG Hà Nội), thời lượng 1,5-2 tiết lịch sử/tuần ở bậc phổ thông không phải là ít. Nhưng như ông Vũ Dương Ninh phát biểu: việc coi nhẹ môn sử thể hiệ n ở chỉ đạo của các trường, sở trong việc cắt xén giờ học môn lịch sử và một số môn học khác, học dồn giờ để tập trung thời gian chuyên sâu các môn "quan trọng hơn". Nó cũng thể hiện ở chỗ có năm thi tốt nghiệp THPT môn sử, có năm không. Môn sử còn được xếp vào môn thi thay thế cho học sinh không được học ngoại ngữ.
PGS Vũ Quang Hiểu kể: "Một năm tiếp xúc với không dưới 100 học sinh phổ thông, hầu hết trong số này khi được hỏi đều trả lời: không có thời gian để học sử, thường chỉ giở sách xem lại bài vào trước buổi học có môn sử. Đây là tình trạng phổ biến ở nhiều học sinh".
Áp đặt quan điểm
Nguyên nhân nữa là sự bất ổn ở chính chương trình, sách giáo khoa. Theo TS Hà Minh Hồng - trưởng khoa lịch sử ĐH Khoa học xã hội & nhân văn, thời lượng dành cho môn lịch sử là vừa nhưng nội dung ôm đồm, nặng nề và quá khô khan, thậm chí quá sức đối với học sinh. Sách giáo khoa lịch sử nhưng nặng về tính chính trị hơn là tính trung thực, khách quan của lịch sử.
Bà Hà Thị Nga, chuyên viên Sở GD-ĐT Hải Phòng, cho rằng: nội dung sách giáo khoa nặng về quan điểm áp đặt đối với học sinh. Tài liệu tham khảo lịch sử nhiều nhưng trùng lặp nội dung kiến thức, không thống nhất số liệu, khó khăn cho cả giáo viên và học sinh. Cách diễn đạt phức tạp, khó hiểu với học sinh phổ thông.
Image
Biểu đồ kết quả thi môn lịch sử (khối C) kỳ thi ĐH, CĐ 2007
Nguyên nhân từ phía giáo viên, phương pháp giảng dạy, môi trường học sử cũng được đề cập. Quan niệm về "môn phụ” chi phối rất nhiều đến nhiệt tình giảng dạy của giáo viên dạy sử. Nhận xét của GS Đỗ Thanh Bình - chủ nhiệm khoa lịch sử ĐH Sư phạm Hà Nội - về thực trạng giáo viên môn sử: "Bất cập cả về trình độ và nghiệp vụ sư phạm.
Lối dạy học "như sách", nhàm chán là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc học sinh chán học, việc nghe giảng rồi chữ thầy trả thầy. Đời sống khó khăn của giáo viên dạy môn phụ, yêu cầu dễ dãi trong quản lý chuyên môn càng khiến giáo viên sử không thể tự nâng tầm cho mình".
Môi trường học sử nghèo nàn cũng là một cản trở trong việc lôi cuốn học sinh yêu môn sử.
Không đứng ngoài cuộc
"Dạy sử là dạy cho học sinh biết về nền tảng văn hóa dân tộc, nền tảng văn hóa nhân loại, dạy để học sinh làm người" - nếu nhìn theo cách này thì môn sử quá quan trọng. Theo PGS Võ Văn Sen - hiệu trưởng ĐH Khoa học xã hội & nhân văn TP.HCM: "Nên đưa môn sử vào diện môn thi bắt buộc. Chỉ có như thế thì quan niệm coi thường môn sử mới có thể thay đổi". PGS Đỗ Bang - ĐH Khoa học Huế - nói: "Chúng ta nên làm theo một số nước khác, ngay cả việc thi tuyển công chức, tuyển dụng lao động, công nhận chuyên viên cao cấp... cũng yêu cầu sát hạch về kiến thức lịch sử...".
GS Phan Huy Lê khẳng định Hội Khoa học lịch sử VN sẽ không đứng ngoài cuộc. Hôm nay, BCH hội đã họp bàn để phản ánh hiệu quả nhất các vấn đề đã đặt ra tại hội thảo. Hội sẽ nhận trách nhiệm thẩm định, phản biện và góp ý cho việc rà soát lại chương trình - sách giáo khoa để hướng đến việc bổ sung, lược bớt những phần không cần thiết, đổi mới phương pháp dạy học sử...
Mấy người dạy sử bằng trái tim
Bà Lê Thị Hiền - Sở GD-ĐT Thanh Hóa - cho rằng không thể né tránh nguyên nhân khiến việc dạy học sử sa sút là do trình độ giáo viên. Trong khi phụ huynh và học sinh không mặn mà với môn sử, giáo viên chính là người phải vượt lên mặc cảm về "giáo viên môn phụ” để tạo cho học sinh sự hứng thú khi học môn học này.
Sở GD-ĐT Thanh Hóa khi tổ chức chuyên đề về thay sách giáo khoa đã quan tâm đến việc nâng chất lượng giảng dạy môn lịch sử. Nhiều giáo viên đã tự sưu tầm tài liệu lịch sử, băng hình, tư liệu văn học liên quan đến lịch sử, tranh ảnh, câu chuyện lịch sử... để sử dụng trong giờ dạy sử. Một số giáo viên đã thiết kế bài giảng điện tử, tổ chức các trò chơi, hoạt động ngoại khóa cho học sinh tìm hiểu lịch sử từ thực tế...
Để làm được những việc này, người giáo viên không chỉ thực hiện trách nhiệm theo kiểu "làm công ăn lương" mà phải tận tâm với học sinh, yêu nghề, có một trái tim. Nhưng tiếc thay, những người thầy dạy sử bằng trái tim lại không có nhiều!
GS Đinh Xuân Lâm phát biểu: không chỉ đào tạo giáo viên để dạy kiến thức lịch sử mà còn cần bồi dưỡng để chính giáo viên cũng say mê với sử thì mới có thể dạy tốt.
Trịnh Vĩnh Hà - Tuổi Trẻ oline
3.23.2008
NHỮNG THÀNH TỰU CỦA 10 NĂM ASEM
Hội nghị cấp cao Á - Âu lần thứ 6 (ASEM-6) diễn ra tại Helsinki thủ đô của Phần Lan với sự tham dự của hầu hết các nhà lãnh đạo 39 quốc gia thành viên, gồm 13 nước châu Á, 25 nước Liên hiệp châu Âu (EU) và Ủy ban châu Âu (EC). Chủ đề bao trùm của Hội nghị Thượng đỉnh lần này là: “10 năm ASEM: Thách thức toàn cầu - Một tiếng nói chung”. Đây là dịp để các nước thành viên nhìn lại những thành tựu của ASEM trong 10 năm qua, định hướng cho tương lai những năm tới, nhất là sự ứng phó hiệu quả hơn của các nước châu Á và châu Âu trước những thách thức của toàn cầu hóa.
Dưới đây là một số nét khái quát về các hoạt động hợp tác và các thành tựu đạt được của ASEM kể từ khi thành lập tới nay
1. Hợp tác trong lĩnh vực chính trị:
ASEM đã trở thành nơi mà các nước châu Á và châu Âu có thể thảo luận về các vấn đề chính trị quan trọng theo phương thức không đối đầu. Các hoạt động trọng tâm của hợp tác chính trị bao gồm:
- Củng cố hệ thống đa phương trong đó Liên hợp quốc đóng vai trò trung tâm để giải quyết các tranh chấp quốc tế và các thách thức toàn cầu. Nổi bật trong chương trình nghị sự của ASEM là việc cải cách Liên hợp quốc. Các vấn đề cụ thể được thảo luận là các mục tiêu thiên niên kỷ và xây dựng hoà bình. Các thành viên ASEM cũng đã tổ chức các cuộc hội đàm trước các phiên họp Đại Hội đồng của Liên hợp quốc để trao đổi quan điểm về những vấn đề liên quan.
- Thúc đẩy sự phát triển trong khu vực và quốc tế: Các vấn đề khu vực và quốc tế quan trọng thường được thảo luận tại các cuộc họp của ASEM. Sau khi xem xét, đánh giá kỹ lưỡng, ASEM sẽ đưa ra các tuyên bố chính trị. Ví dụ tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 3 năm 2000, các thành viên ASEM đã đưa ra tuyên bố Seoul về vấn đề hoà bình cho bán đảo Triều Tiên, khẳng định lại sự ủng hộ của mình đối với quá trình hợp tác và hòa giải trên bán đảo Triều Tiên. Lập trường quan điểm này đã được tái khẳng định tại Hội nghị thượng đỉnh ASEM năm 2002 và 2004.
- Hợp tác về an ninh và chống khủng bố: Sau vụ tấn công khủng bố ngày 11/9, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế đã trở thành một vấn đề được ưu tiên trong ASEM. Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEM 4 năm 2002, các bên đã thông qua Tuyên bố về hợp tác chống chủ nghĩa khủng bố và Chương trình hợp tác chống chủ nghĩa khủng bố, nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Liên hợp quốc trong việc đương đầu với chủ nghĩa khủng bố và sự cần thiết phải nhận biết và loại trừ những vấn đề gốc rễ của chủ nghĩa khủng bố. Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao tháng 5/2005, các Bộ trưởng đã kêu gọi các nước phê chuẩn và thực hiện 12 công ước và nghị định thư về chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế. Thêm vào đó, một loạt các cuộc hội thảo về chống khủng bố đã được tổ chức.
ASEM cũng cam kết không phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt. Tại cuộc Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao tháng 7/2003, các Bộ trưởng đã thông qua Tuyên bố chính trị về việc ngăn ngừa phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt, tái khẳng định lại tầm quan trọng của việc thực hiện các nghị định thư và công ước quốc tế liên quan.
- Giải quyết các vấn đề môi trường: Môi trường là một chủ đề ngày càng được quốc tế quan tâm. Các thành viên ASEM đã thảo luận về các vấn đề môi trường trọng yếu như tương lai của Nghị định thư Tôkyô, sự thay đổi về khí hậu và kế hoạch tiếp theo Hội nghị cấp cao thế giới về phát triển bền vững. Tại Hội nghị Bộ trưởng về môi trường vào tháng 10/2003, các thành viên đã nhấn mạnh rằng ASEM nên thường xuyên triển khai các cuộc thảo luận và đàm phán giữa các bên về vấn đề môi trường.
- Thảo luận các vấn đề về nhân quyền: ASEM đã phát triển một diễn đàn nơi mà các vấn đề nhạy cảm như quyền con người có thể được thảo luận. Hàng loạt cuộc hội thảo không chính thức trong ASEM về nhân quyền đã diễn ra từ năm 1997. Các vấn đề được nhấn mạnh bao gồm cách tiếp cận sự công bằng, sự khác biệt về giá trị giữa châu Á và châu Âu, tự do ngôn luận, quyền dân chủ, tự do tín ngưỡng, bảo hộ lao động, bảo vệ quyền lợi của người di cư và dân tộc thiểu số.
- Đối phó với những mối đe doạ toàn cầu: Trong những năm gần đây, ASEM đã bàn bạc và tìm cách đối phó với những mối đe doạ toàn cầu như tội phạm xuyên quốc gia, di cư, tắc nghẽn giao thông và đặc biệt là nạn buôn bán ma tuý, phụ nữ và trẻ em, bên cạnh đó là các vấn đề liên quan đến sức khoẻ như đấu tranh phòng chống HIV/AIDS và các loại dịch bệnh. Một số sáng kiến đã được thực hiện nhằm trao đổi kinh nghiệm và chia sẻ thông tin giữa các nước thành viên trong quá trình giải quyết các mối đe doạ này.
2. Hợp tác trong lĩnh vực kinh tế tài chính
Với vị thế là hai khu vực kinh tế quan trọng của thế giới, châu Á và châu Âu đã đạt được rất nhiều thành quả thông qua đối thoại và hợp tác trong lĩnh vực kinh tế tài chính giữa các nước thành viên. Các hoạt động hợp tác bao gồm:
Thúc đẩy chủ nghĩa kinh tế đa phương: Một trong những ưu tiên chính trong hoạt động của ASEM là bổ sung và hỗ trợ cho các nỗ lực nhằm củng cố hệ thống thương mại đa phương mở và có quy tắc được thể hiện trong WTO. ASEM cung cấp một môi trường trong đó các bên có thể thảo luận về các vấn đề của WTO như các vấn đề liên quan đến Chương trình nghị sự phát triển Doha, với mục tiêu đạt được quan điểm chung. Các vấn đề liên quan đến WTO luôn được ưu tiên trong các cuộc họp thượng đỉnh và cuộc họp cấp Bộ trưởng của ASEM
Thúc đẩy thương mại và đầu tư: Hội nghị thượng đỉnh ASEM 2 năm 1998 đã thông qua Chương trình hành động thuận lợi hoá thương mại (TFAP) nhằm mục tiêu giảm thiểu và xoá bỏ các hàng rào thương mại phi thuế quan. Hội nghị cũng thông qua Chương trình hành động xúc tiến đầu tư (IPAP) để thúc đẩy dòng đầu tư hai chiều giữa châu Á và châu Âu, xây dựng các chương trình nhằm khuyếch trương đầu tư giữa các nước thành viên, đồng thời tăng cường cải thiện cơ chế chính sách và quy định về đầu tư trong khu vực. Thêm vào đó, hợp tác trong việc phát triển thương mại điện tử cũng đạt được nhiều tiến bộ. Hội nghị thương mại điện tử ASEM 4 năm 2005 đã xác định các hướng gia tăng thương mại, đầu tư bằng việc sử dụng công nghệ mạng.
Tăng cường đối thoại về các vấn đề tài chính: Đối thoại tài chính trong ASEM chủ yếu tập trung vào các vấn đề kinh tế vĩ mô thông qua việc rà soát thường xuyên tình hình kinh tế toàn cầu và sự phát triển tài chính ở cả hai khu vực. Các Bộ trưởng tài chính kêu gọi một diễn đàn đối thoại về các vấn đề các bên cùng quan tâm, bao gồm cấu trúc tài chính quốc tế, các nguyên tắc và quy định giám sát trong lĩnh vực tài chính, việc chống rửa tiền và tăng cường hợp tác trong lĩnh vực hải quan.
Quản lý khủng hoảng: Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 đã ảnh hưởng không chỉ tới nền kinh tế châu Á mà còn tác động tới toàn thế giới. Để đối phó với tình hình này, Hội nghị thượng đỉnh ASEM 2 năm 1998 đã đưa ra hai sáng kiến. Trước hết là thông qua cam kết thương mại và đầu tư ASEM, thể hiện quyết tâm chung nhằm chống lại bất kỳ áp lực nào của chủ nghĩa bảo hộ có thể phát sinh từ các cuộc khủng hoảng. Thứ hai là thành lập Quỹ tín thác ASEM (ATF) tại Ngân hàng Thế giới nhằm cung cấp tài chính cho các chương trình trợ giúp kỹ thuật hỗ trợ cho các nước bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính.
Thúc đẩy đối thoại trong khu vực doanh nghiệp: Hợp tác kinh tế giữa châu Á và châu Âu sẽ không trọn vẹn nếu thiếu sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp. Kể từ sau Hội nghị thượng đỉnh ASEM lần thứ nhất năm 1996, Diễn đàn doanh nghiệp Á – Âu (AEBF), gồm đại diện chính phủ và các nhà doanh nghiệp tầm cỡ ở cả hai khu vực đã được tổ chức hàng năm nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác trong cộng đồng doanh nghiệp và tăng cường mối liên kết giữa chính phủ và doanh nghiệp. AEBF đem lại cơ hội cho cộng đồng doanh nghiệp ở cả hai châu lục rà soát các vấn đề liên quan đến thương mại và đầu tư và tổng hợp ý kiến đề xuất lên các cuộc họp chính thức của ASEM.
Hướng tới quan hệ đối tác kinh tế chặt chẽ hơn: Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEM 5 năm 2004 đã thông qua Tuyên bố Hà Nội về quan hệ đối tác kinh tế Á – Âu chặt chẽ hơn nhằm nâng hợp tác Á – Âu lên tầm cao mới, thực chất và hiệu quả hơn, và kêu gọi các Bộ trưởng Tài chính tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác kinh tế. Trong lĩnh vực tài chính, các Bộ trưởng Tài chính đã đưa ra sáng kiến về Hợp tác kinh tế và tài chính chặt chẽ hơn thông qua tăng cường đối thoại chính sách, hỗ trợ kỹ thuật và khai phá những cách tiếp cận mới cho việc thắt chặt hơn nữa quan hệ A –Âu về lâu dài. Tiếp theo đó, các Bộ trưởng Tài chính đã thông qua một Cơ chế đối thoại nhằm đối phó với những trường hợp khẩn cấp về tài chính tại cuộc họp vào tháng 4/2006
3. Hợp tác trong lĩnh vực văn hoá xã hội
Đối thoại văn hóa và giao lưu giữa các nước thành viên là một phần không thể thiếu trong việc tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau trong ASEM. Hoạt động hợp tác của ASEM trong lĩnh vực văn hoá, xá hội tập trung vào các mảng sau:
- Thúc đẩy đối thoại về văn hoá và văn minh: Đối thoại về văn hóa và văn minh được coi là một trọng tâm trong hợp tác ASEM với mục tiêu nhằm tăng cường sự hiểu biết, giao lưu và hợp tác giữa các nền văn hóa và văn minh hết sức đa dạng của các nước thành viên ASEM. Hội nghị ASEM cấp Bộ trưởng về Văn hóa và Văn minh đầu tiên đã diễn ra từ ngày 3-4/12/2003 tại Bắc Kinh. Các thành viên ASEM đã nhất trí tăng cường hơn nữa đối thoại trong lĩnh vực quan trọng này và đã đề ra nhiều biện pháp cụ thể để triển khai sự hợp tác, trao đổi giữa các nền văn hóa, văn minh trong giai đoạn tiếp theo.
- Thúc đẩy đối thoại về tín ngưỡng: ASEM quan tâm tới việc thúc đẩy đối thoại về tín ngưỡng và tạo dựng sự hoà hợp giữa các tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau. Hội nghị ASEM về đối thoại tín ngưỡng lần đầu tiên được tổ chức tại Bali vào tháng 7/2005 đã hội tụ những người đứng đầu các tổ chức tôn giáo, các nhà trí thức, nhà báo từ các nước thành viên. Hội nghị đã thông qua Tuyên bố Bali về việc tạo dựng sự hoà hợp về tín ngưỡng trong cộng đồng quốc tế, khẳng định rằng hoà bình, công bằng, tình thương và sự khoan dung là những điều mấu chốt để tạo nên sự hoà hợp. Hội nghị cũng đã đưa ra các phương sách trong lĩnh vực giáo dục, văn hoá, truyền thông, tôn giáo và xã hội để thực hiện mục tiêu này.
- Thành lập Quỹ Á – Âu: Quỹ Á – Âu (ASEF) được thành lập tháng 2/1997 với mục tiêu tăng cường hiểu biết và giao lưu giữa nhân dân hai châu lục thông qua giao lưu về văn hoá, tri thức và con người. Quỹ được dựa trên sự đóng góp tự nguyện của các thành viên ASEM.
- Bên cạnh đó, ASEM còn tiến hành các hoạt động mở rộng hợp tác giáo dục giữa châu Á và châu Âu, tăng cường hợp tác về công nghệ thông tin giữa các nước thành viên…
Tóm lại, sự ra đời của ASEM là một mốc lịch sử, là động lực thúc đẩy mối quan hệ hợp tác nhiều mặt dựa trên nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Sự phát triển trong một thập kỷ qua đã chứng minh việc thiết lập Diễn đàn là một quyết định rất đúng đắn. Ba trụ cột hợp tác của ASEM là kinh tế - thương mại, chính trị và văn hoá đều có những bước tiến triển đáng ghi nhận. Quan hệ hợp tác ASEM ngày càng được mở rộng và đi vào chiều sâu, trong đó hợp tác kinh tế - thương mại được coi là mục tiêu hàng đầu. Các nước cũng đã tiến hành đối thoại trên tinh thần tôn trọng và tin cậy lẫn nhau, góp phần củng cố hoà bình, thúc đẩy hợp tác vì mục tiêu phát triển, thiết lập một trật tự thế giới bình đẳng, công bằng. Mối quan hệ giữa hai khu vực Á-Âu đã và đang có ảnh hưởng ngày càng sâu sắc tới cục diện toàn cầu.
Trước tình hình thế giới có những thay đổi và biến động rất phức tạp so với 10 năm trước, ASEM đang đứng trước không ít thách thức cần phải thích ứng; phải khắc phục những tồn tại để củng cố và làm cho tiến trình hợp tác năng động, thực chất hơn nữa. Là một thành viên tích cực trong ASEM, Việt Nam sẽ tiếp tục đóng góp nỗ lực của mình vào quá trình này để đưa hợp tác Á-Âu ngày càng phát triển nhanh và hiệu quả hơn.
UBQG (Quỳnh Anh -tổng hợp từ http://www.asem6.fi)Thứ 5: 16/11/2006
Dưới đây là một số nét khái quát về các hoạt động hợp tác và các thành tựu đạt được của ASEM kể từ khi thành lập tới nay
1. Hợp tác trong lĩnh vực chính trị:
ASEM đã trở thành nơi mà các nước châu Á và châu Âu có thể thảo luận về các vấn đề chính trị quan trọng theo phương thức không đối đầu. Các hoạt động trọng tâm của hợp tác chính trị bao gồm:
- Củng cố hệ thống đa phương trong đó Liên hợp quốc đóng vai trò trung tâm để giải quyết các tranh chấp quốc tế và các thách thức toàn cầu. Nổi bật trong chương trình nghị sự của ASEM là việc cải cách Liên hợp quốc. Các vấn đề cụ thể được thảo luận là các mục tiêu thiên niên kỷ và xây dựng hoà bình. Các thành viên ASEM cũng đã tổ chức các cuộc hội đàm trước các phiên họp Đại Hội đồng của Liên hợp quốc để trao đổi quan điểm về những vấn đề liên quan.
- Thúc đẩy sự phát triển trong khu vực và quốc tế: Các vấn đề khu vực và quốc tế quan trọng thường được thảo luận tại các cuộc họp của ASEM. Sau khi xem xét, đánh giá kỹ lưỡng, ASEM sẽ đưa ra các tuyên bố chính trị. Ví dụ tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 3 năm 2000, các thành viên ASEM đã đưa ra tuyên bố Seoul về vấn đề hoà bình cho bán đảo Triều Tiên, khẳng định lại sự ủng hộ của mình đối với quá trình hợp tác và hòa giải trên bán đảo Triều Tiên. Lập trường quan điểm này đã được tái khẳng định tại Hội nghị thượng đỉnh ASEM năm 2002 và 2004.
- Hợp tác về an ninh và chống khủng bố: Sau vụ tấn công khủng bố ngày 11/9, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế đã trở thành một vấn đề được ưu tiên trong ASEM. Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEM 4 năm 2002, các bên đã thông qua Tuyên bố về hợp tác chống chủ nghĩa khủng bố và Chương trình hợp tác chống chủ nghĩa khủng bố, nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Liên hợp quốc trong việc đương đầu với chủ nghĩa khủng bố và sự cần thiết phải nhận biết và loại trừ những vấn đề gốc rễ của chủ nghĩa khủng bố. Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao tháng 5/2005, các Bộ trưởng đã kêu gọi các nước phê chuẩn và thực hiện 12 công ước và nghị định thư về chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế. Thêm vào đó, một loạt các cuộc hội thảo về chống khủng bố đã được tổ chức.
ASEM cũng cam kết không phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt. Tại cuộc Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao tháng 7/2003, các Bộ trưởng đã thông qua Tuyên bố chính trị về việc ngăn ngừa phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt, tái khẳng định lại tầm quan trọng của việc thực hiện các nghị định thư và công ước quốc tế liên quan.
- Giải quyết các vấn đề môi trường: Môi trường là một chủ đề ngày càng được quốc tế quan tâm. Các thành viên ASEM đã thảo luận về các vấn đề môi trường trọng yếu như tương lai của Nghị định thư Tôkyô, sự thay đổi về khí hậu và kế hoạch tiếp theo Hội nghị cấp cao thế giới về phát triển bền vững. Tại Hội nghị Bộ trưởng về môi trường vào tháng 10/2003, các thành viên đã nhấn mạnh rằng ASEM nên thường xuyên triển khai các cuộc thảo luận và đàm phán giữa các bên về vấn đề môi trường.
- Thảo luận các vấn đề về nhân quyền: ASEM đã phát triển một diễn đàn nơi mà các vấn đề nhạy cảm như quyền con người có thể được thảo luận. Hàng loạt cuộc hội thảo không chính thức trong ASEM về nhân quyền đã diễn ra từ năm 1997. Các vấn đề được nhấn mạnh bao gồm cách tiếp cận sự công bằng, sự khác biệt về giá trị giữa châu Á và châu Âu, tự do ngôn luận, quyền dân chủ, tự do tín ngưỡng, bảo hộ lao động, bảo vệ quyền lợi của người di cư và dân tộc thiểu số.
- Đối phó với những mối đe doạ toàn cầu: Trong những năm gần đây, ASEM đã bàn bạc và tìm cách đối phó với những mối đe doạ toàn cầu như tội phạm xuyên quốc gia, di cư, tắc nghẽn giao thông và đặc biệt là nạn buôn bán ma tuý, phụ nữ và trẻ em, bên cạnh đó là các vấn đề liên quan đến sức khoẻ như đấu tranh phòng chống HIV/AIDS và các loại dịch bệnh. Một số sáng kiến đã được thực hiện nhằm trao đổi kinh nghiệm và chia sẻ thông tin giữa các nước thành viên trong quá trình giải quyết các mối đe doạ này.
2. Hợp tác trong lĩnh vực kinh tế tài chính
Với vị thế là hai khu vực kinh tế quan trọng của thế giới, châu Á và châu Âu đã đạt được rất nhiều thành quả thông qua đối thoại và hợp tác trong lĩnh vực kinh tế tài chính giữa các nước thành viên. Các hoạt động hợp tác bao gồm:
Thúc đẩy chủ nghĩa kinh tế đa phương: Một trong những ưu tiên chính trong hoạt động của ASEM là bổ sung và hỗ trợ cho các nỗ lực nhằm củng cố hệ thống thương mại đa phương mở và có quy tắc được thể hiện trong WTO. ASEM cung cấp một môi trường trong đó các bên có thể thảo luận về các vấn đề của WTO như các vấn đề liên quan đến Chương trình nghị sự phát triển Doha, với mục tiêu đạt được quan điểm chung. Các vấn đề liên quan đến WTO luôn được ưu tiên trong các cuộc họp thượng đỉnh và cuộc họp cấp Bộ trưởng của ASEM
Thúc đẩy thương mại và đầu tư: Hội nghị thượng đỉnh ASEM 2 năm 1998 đã thông qua Chương trình hành động thuận lợi hoá thương mại (TFAP) nhằm mục tiêu giảm thiểu và xoá bỏ các hàng rào thương mại phi thuế quan. Hội nghị cũng thông qua Chương trình hành động xúc tiến đầu tư (IPAP) để thúc đẩy dòng đầu tư hai chiều giữa châu Á và châu Âu, xây dựng các chương trình nhằm khuyếch trương đầu tư giữa các nước thành viên, đồng thời tăng cường cải thiện cơ chế chính sách và quy định về đầu tư trong khu vực. Thêm vào đó, hợp tác trong việc phát triển thương mại điện tử cũng đạt được nhiều tiến bộ. Hội nghị thương mại điện tử ASEM 4 năm 2005 đã xác định các hướng gia tăng thương mại, đầu tư bằng việc sử dụng công nghệ mạng.
Tăng cường đối thoại về các vấn đề tài chính: Đối thoại tài chính trong ASEM chủ yếu tập trung vào các vấn đề kinh tế vĩ mô thông qua việc rà soát thường xuyên tình hình kinh tế toàn cầu và sự phát triển tài chính ở cả hai khu vực. Các Bộ trưởng tài chính kêu gọi một diễn đàn đối thoại về các vấn đề các bên cùng quan tâm, bao gồm cấu trúc tài chính quốc tế, các nguyên tắc và quy định giám sát trong lĩnh vực tài chính, việc chống rửa tiền và tăng cường hợp tác trong lĩnh vực hải quan.
Quản lý khủng hoảng: Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 đã ảnh hưởng không chỉ tới nền kinh tế châu Á mà còn tác động tới toàn thế giới. Để đối phó với tình hình này, Hội nghị thượng đỉnh ASEM 2 năm 1998 đã đưa ra hai sáng kiến. Trước hết là thông qua cam kết thương mại và đầu tư ASEM, thể hiện quyết tâm chung nhằm chống lại bất kỳ áp lực nào của chủ nghĩa bảo hộ có thể phát sinh từ các cuộc khủng hoảng. Thứ hai là thành lập Quỹ tín thác ASEM (ATF) tại Ngân hàng Thế giới nhằm cung cấp tài chính cho các chương trình trợ giúp kỹ thuật hỗ trợ cho các nước bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính.
Thúc đẩy đối thoại trong khu vực doanh nghiệp: Hợp tác kinh tế giữa châu Á và châu Âu sẽ không trọn vẹn nếu thiếu sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp. Kể từ sau Hội nghị thượng đỉnh ASEM lần thứ nhất năm 1996, Diễn đàn doanh nghiệp Á – Âu (AEBF), gồm đại diện chính phủ và các nhà doanh nghiệp tầm cỡ ở cả hai khu vực đã được tổ chức hàng năm nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác trong cộng đồng doanh nghiệp và tăng cường mối liên kết giữa chính phủ và doanh nghiệp. AEBF đem lại cơ hội cho cộng đồng doanh nghiệp ở cả hai châu lục rà soát các vấn đề liên quan đến thương mại và đầu tư và tổng hợp ý kiến đề xuất lên các cuộc họp chính thức của ASEM.
Hướng tới quan hệ đối tác kinh tế chặt chẽ hơn: Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEM 5 năm 2004 đã thông qua Tuyên bố Hà Nội về quan hệ đối tác kinh tế Á – Âu chặt chẽ hơn nhằm nâng hợp tác Á – Âu lên tầm cao mới, thực chất và hiệu quả hơn, và kêu gọi các Bộ trưởng Tài chính tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác kinh tế. Trong lĩnh vực tài chính, các Bộ trưởng Tài chính đã đưa ra sáng kiến về Hợp tác kinh tế và tài chính chặt chẽ hơn thông qua tăng cường đối thoại chính sách, hỗ trợ kỹ thuật và khai phá những cách tiếp cận mới cho việc thắt chặt hơn nữa quan hệ A –Âu về lâu dài. Tiếp theo đó, các Bộ trưởng Tài chính đã thông qua một Cơ chế đối thoại nhằm đối phó với những trường hợp khẩn cấp về tài chính tại cuộc họp vào tháng 4/2006
3. Hợp tác trong lĩnh vực văn hoá xã hội
Đối thoại văn hóa và giao lưu giữa các nước thành viên là một phần không thể thiếu trong việc tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau trong ASEM. Hoạt động hợp tác của ASEM trong lĩnh vực văn hoá, xá hội tập trung vào các mảng sau:
- Thúc đẩy đối thoại về văn hoá và văn minh: Đối thoại về văn hóa và văn minh được coi là một trọng tâm trong hợp tác ASEM với mục tiêu nhằm tăng cường sự hiểu biết, giao lưu và hợp tác giữa các nền văn hóa và văn minh hết sức đa dạng của các nước thành viên ASEM. Hội nghị ASEM cấp Bộ trưởng về Văn hóa và Văn minh đầu tiên đã diễn ra từ ngày 3-4/12/2003 tại Bắc Kinh. Các thành viên ASEM đã nhất trí tăng cường hơn nữa đối thoại trong lĩnh vực quan trọng này và đã đề ra nhiều biện pháp cụ thể để triển khai sự hợp tác, trao đổi giữa các nền văn hóa, văn minh trong giai đoạn tiếp theo.
- Thúc đẩy đối thoại về tín ngưỡng: ASEM quan tâm tới việc thúc đẩy đối thoại về tín ngưỡng và tạo dựng sự hoà hợp giữa các tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau. Hội nghị ASEM về đối thoại tín ngưỡng lần đầu tiên được tổ chức tại Bali vào tháng 7/2005 đã hội tụ những người đứng đầu các tổ chức tôn giáo, các nhà trí thức, nhà báo từ các nước thành viên. Hội nghị đã thông qua Tuyên bố Bali về việc tạo dựng sự hoà hợp về tín ngưỡng trong cộng đồng quốc tế, khẳng định rằng hoà bình, công bằng, tình thương và sự khoan dung là những điều mấu chốt để tạo nên sự hoà hợp. Hội nghị cũng đã đưa ra các phương sách trong lĩnh vực giáo dục, văn hoá, truyền thông, tôn giáo và xã hội để thực hiện mục tiêu này.
- Thành lập Quỹ Á – Âu: Quỹ Á – Âu (ASEF) được thành lập tháng 2/1997 với mục tiêu tăng cường hiểu biết và giao lưu giữa nhân dân hai châu lục thông qua giao lưu về văn hoá, tri thức và con người. Quỹ được dựa trên sự đóng góp tự nguyện của các thành viên ASEM.
- Bên cạnh đó, ASEM còn tiến hành các hoạt động mở rộng hợp tác giáo dục giữa châu Á và châu Âu, tăng cường hợp tác về công nghệ thông tin giữa các nước thành viên…
Tóm lại, sự ra đời của ASEM là một mốc lịch sử, là động lực thúc đẩy mối quan hệ hợp tác nhiều mặt dựa trên nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Sự phát triển trong một thập kỷ qua đã chứng minh việc thiết lập Diễn đàn là một quyết định rất đúng đắn. Ba trụ cột hợp tác của ASEM là kinh tế - thương mại, chính trị và văn hoá đều có những bước tiến triển đáng ghi nhận. Quan hệ hợp tác ASEM ngày càng được mở rộng và đi vào chiều sâu, trong đó hợp tác kinh tế - thương mại được coi là mục tiêu hàng đầu. Các nước cũng đã tiến hành đối thoại trên tinh thần tôn trọng và tin cậy lẫn nhau, góp phần củng cố hoà bình, thúc đẩy hợp tác vì mục tiêu phát triển, thiết lập một trật tự thế giới bình đẳng, công bằng. Mối quan hệ giữa hai khu vực Á-Âu đã và đang có ảnh hưởng ngày càng sâu sắc tới cục diện toàn cầu.
Trước tình hình thế giới có những thay đổi và biến động rất phức tạp so với 10 năm trước, ASEM đang đứng trước không ít thách thức cần phải thích ứng; phải khắc phục những tồn tại để củng cố và làm cho tiến trình hợp tác năng động, thực chất hơn nữa. Là một thành viên tích cực trong ASEM, Việt Nam sẽ tiếp tục đóng góp nỗ lực của mình vào quá trình này để đưa hợp tác Á-Âu ngày càng phát triển nhanh và hiệu quả hơn.
UBQG (Quỳnh Anh -tổng hợp từ http://www.asem6.fi)Thứ 5: 16/11/2006
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)